| TS. Mạc Quốc Anh khẳng định, từ các câu chuyện văn hóa, lịch sử và thương hiệu quốc gia, doanh nghiệp gắn thương hiệu của mình vào một cách tự nhiên, tạo ra sự bổ trợ hiệu quả cho nhau. (Ảnh: Thành Long) |
Ông đánh giá mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong việc tham gia xây dựng thương hiệu quốc gia hiện nay như thế nào?
Để hình thành thương hiệu mang tầm quốc gia, các doanh nghiệp của chúng ta phải có quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như có những hoạt động về xây dựng các chiến lược về marketing, về truyền thông một cách bài bản, chuyên nghiệp và phải đầu tư một cách dài hạn.
Thương hiệu quốc gia không phải chỉ đơn thuần là một thương hiệu của một doanh nghiệp, mà doanh nghiệp đó phải đại diện cho một quốc gia để có thể cạnh tranh, minh bạch và sòng phẳng với các thương hiệu quốc tế đang sản xuất, kinh doanh, đầu tư tại Việt Nam. Cũng như thương hiệu quốc gia có thể vươn tầm được ra các các trường quốc tế.
Việt Nam hiện nay có hơn 17 hiệp định song phương FTA. Chúng ta đã là đối tác quan trọng, chiến lược của rất nhiều các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Singapore, châu Âu, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nam Phi... Có thể thấy, thương hiệu quốc gia mang tính tầm vóc, không chỉ là thương hiệu của Việt Nam mà phải mang tầm vóc quốc tế.
Trong hội nhập kinh tế quốc tế, thương hiệu quốc gia sẽ giúp cho các doanh nghiệp có chỗ đứng, vị thế và vị trí ở các đối tác, ở trong cả người tiêu dùng. Thương hiệu quốc gia cũng giúp cho doanh nghiệp mở rộng được quy mô, mở rộng được phần, chiếm lĩnh trường.
Và một thương hiệu quốc gia tốt khi được đầu tư một cách bài bản, có chọn lọc, có một nét văn hóa riêng, đạo đức kinh doanh tốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp có doanh thu cao, chiếm lĩnh được trường, tăng khả năng tiếp cận khoa học công nghệ và nhiều khoản đầu tư tài chính lớn.
Trước các tiêu chí của chương trình Thương hiệu Quốc gia như chất lượng sản phẩm, đổi mới sáng tạo và năng lực dẫn dắt trường. Đâu là lộ trình khả để doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận, đáp ứng và bứt phá, thưa ông?
Về nhu cầu trường, có thể thấy, một doanh nghiệp có thương hiệu càng phải có những phương án, kế hoạch, lộ trình để giữ vững thương hiệu đó. Bởi một thương hiệu quốc gia không chỉ trong vòng 1 năm, 2 năm, 3 năm mà thương hiệu quốc gia đó sẽ đi theo các doanh nghiệp 5 năm, 10 năm, có khi đi đến cả hết một vòng đời của một sản phẩm, hoặc cả một lộ trình phát triển của doanh nghiệp.
Ngoài ra, để một thương hiệu quốc gia dẫn dắt, đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, chúng ta phải biết cách đầu tư, đào tạo nội bộ, phải có nhiều chương trình khuyến mãi, chương trình dịch vụ sau bán hàng. Hay chúng ta cũng phải đầu tư bài bản, một cách chuyên sâu và có độ phủ rộng lớn, không chỉ trường nội địa mà cả trường quốc tế, để thương hiệu quốc gia đó mang tính lan tỏa.
Đặc biệt, với cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải nâng cao được tinh thần trách nhiệm đối với một thương hiệu quốc gia. Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm với đối tác, trách nhiệm với người tiêu dùng, trách nhiệm với xã hội, với cộng đồng. Chỉ như thế, thương hiệu quốc gia đó mới mang tính bền vững. Trong các tiêu chí của một thương hiệu quốc gia, ngoài việc xây dựng hình ảnh, trách nhiệm xã hội phải được gắn vào trong mỗi thương hiệu quốc gia. Định vị của thương hiệu quốc gia trên mỗi các doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng vô cùng quan trọng và cần thiết.
Trong nghị quyết số 68, khối doanh nghiệp tư nhân sẽ trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Vai trò của thương hiệu quốc gia sẽ ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp trong khối nhỏ và vừa, khi khối này chiếm đến 98,5%.
Chính vì vậy, chúng ta phải tăng chất lượng của các doanh nghiệp. Để tăng chất lượng các doanh nghiệp cần có nhiều giải thưởng, khen thưởng, vinh danh nhằm định vị thương hiệu của các doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp dù chưa đạt được thương hiệu quốc gia, nhưng vẫn luôn nỗ lực, luôn cố gắng để làm sao có thể đạt được danh vị như vậy.
Khi đạt được thì doanh nghiệp càng phải lan tỏa, dẫn dắt, chia sẻ các kinh nghiệm, bài học, thậm chí cả thất bại của mình cho những doanh nghiệp khác. Từ đó sẽ có nhiều các thương hiệu quốc gia có thể đáp ứng được nhu cầu về mặt trường, nhu cầu về khách hàng.
Khi đạt được thương hiệu quốc gia đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đó đạt được thì khả năng tín dụng tốt hơn, bởi họ sẽ được bạn hàng, đối tác tin dùng. Phương án kinh doanh được tiếp cận được nhiều khoản vốn, khoản vay ưu đãi hơn, cắt giảm nhiều thủ tục khác.
Ông có thể chia sẻ mô hình hoặc kinh nghiệm quốc tế mà doanh nghiệp Việt có thể tham khảo trong việc gắn kết thương hiệu doanh nghiệp với thương hiệu quốc gia để nâng cao vị thế trên trường toàn cầu?
Hiện nay, các doanh nghiệp có tuổi đời gần 100 năm, hơn 100 năm ở các nước phát triển như Samsung ở Hàn Quốc, Toyota ở Nhật Bản... là những ví dụ điển hình.
Các thương hiệu của họ luôn gắn với những hoạt động ở quốc gia. Các đoàn cấp cao đi đến các nước thường có những doanh nghiệp này đi theo tháp tùng. Chúng tôi đánh giá rất cao hoạt động này, bởi họ đang gắn với nhau để chia sẻ, hỗ trợ và đồng hành. Sau đó mới triển khai các hoạt động đầu tư, thương mại, kinh tế và dịch vụ. Ở mỗi quốc gia, họ đều có những câu chuyện và sản phẩm cụ thể. Thông qua các chương trình văn hóa, giao lưu, thể thao, nghệ thuật, các doanh nghiệp có thương hiệu mạnh được kết nối với thương hiệu quốc gia, đặc biệt là thương hiệu văn hóa.
Khi kết hợp như vậy, khả năng lan tỏa và thâm nhập thị trường diễn ra nhanh chóng hơn. Từ các câu chuyện văn hóa, lịch sử và thương hiệu quốc gia, doanh nghiệp gắn thương hiệu của mình vào một cách tự nhiên, tạo ra sự bổ trợ hiệu quả cho nhau.
Thông qua các yếu tố văn hóa, nghệ thuật và lịch sử, nhà đầu tư và người tiêu dùng sở tại hiểu rõ hơn về tính nhân văn và nguồn gốc của quốc gia đó, từ đó tạo sự đồng cảm và tin tưởng đối với sản phẩm. Quá trình xây dựng thương hiệu quốc gia cũng như thương hiệu doanh nghiệp đều là quá trình dài hạn và xuyên suốt.
Việc gắn kết các thương hiệu với nhau không chỉ hỗ trợ về đầu tư và thương mại mà còn lan tỏa sang các lĩnh vực chính trị và văn hóa. Đây là những mô hình tiêu biểu mà nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có thể học hỏi và vận dụng.
Thực tế cho thấy, Việt Nam đã triển khai nhiều mô hình tương tự. Trong các hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại và kết nối đầu tư, các đoàn công tác thường có sự tham gia của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân. Nhiều lãnh đạo địa phương khi tham gia các hội nghị, hội chợ quốc tế cũng đưa theo các doanh nghiệp lớn, nhỏ và vừa nhằm quảng bá và kêu gọi đầu tư cho địa phương.
Có thể thấy, trong thương hiệu quốc gia tồn tại các thương hiệu địa phương. Mỗi địa phương đều có lực lượng doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân. Những năm gần đây, Việt Nam đang từng bước kết hợp hài hòa các lực lượng này để thúc đẩy giao thương, phát huy thế mạnh và tiềm năng của đất nước cũng như các địa phương.
Vai trò của Hiệp hội Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ Hà Nội trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nâng chuẩn sản phẩm, tuân thủ tiêu chí quốc gia và lan tỏa giá trị thương hiệu Việt trong giai đoạn tới là gì, thưa ông?
Hiện nay, các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần đáp ứng ngày càng cao và tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Việc nâng chuẩn không chỉ nhằm phục vụ thị trường trong nước mà còn hướng tới thị trường quốc tế.
Với vai trò đồng hành, là cầu nối giữa doanh nghiệp với các cơ quan trung ương và địa phương, Hiệp hội tổ chức các chương trình đào tạo, huấn luyện, chia sẻ kinh nghiệm, đặc biệt là các mô hình xây dựng thương hiệu quốc gia thành công trong khoảng 10 năm trở lại đây.
Bên cạnh đó, Hiệp hội phối hợp và tận dụng các chương trình của các bộ, ngành như các khóa đào tạo về FTA, nâng chuẩn sản phẩm của Bộ Công Thương; các chương trình xây dựng thương hiệu quốc gia của Cục Xúc tiến Thương mại; cùng các thông tin thị trường do Bộ Ngoại giao cung cấp. Đây là những kênh quan trọng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các giải pháp và chính sách hỗ trợ.
Một nhiệm vụ khác là xây dựng các chuỗi liên kết giá trị thương hiệu, trong đó các doanh nghiệp mạnh hỗ trợ những doanh nghiệp còn hạn chế. Thông qua chuỗi liên kết, kinh nghiệm xây dựng thương hiệu được chia sẻ và lan tỏa.
Đồng thời, Hiệp hội tư vấn cho doanh nghiệp trong việc đăng ký và bảo hộ thương hiệu, không chỉ trong nước mà cả trên thị trường quốc tế, nhằm tránh các tranh chấp và bảo vệ thương hiệu Việt khi đã có chỗ đứng trong và ngoài nước.
Từ góc nhìn chuyên gia, ông cho rằng giá trị cốt lõi nào của Việt Nam có thể trở thành nền tảng cạnh tranh quốc gia khi quảng bá thương hiệu Việt trên trường quốc tế?
Đây là một câu hỏi rất hay. Với thương hiệu của Việt Nam chúng ta yếu tố đầu tiên đó là yếu tố về văn hóa, lịch sử, dân tộc và con người Việt Nam. Đây là yếu tố cạnh tranh trên trường quốc tế. Việt Nam với dân số là 100 triệu dân, là một bạn hàng, đối tác tin cậy trên trường quốc tế.
Để vươn ra thị trường quốc tế trong giai đoạn mới, những giá trị này cần được xác định là nền tảng và lợi thế cạnh tranh cốt lõi.
Thứ hai là chất lượng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam cần được ưu tiên hàng đầu. Việc kết hợp giữa thương mại truyền thống và thương mại điện tử sẽ giúp mở rộng quy mô và lan tỏa thương hiệu hiệu quả hơn.
Thứ ba là khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Hiện nay, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng tại Indonesia, Malaysia và Thái Lan đều trên 46%, trong khi Việt Nam mới đạt hơn 30%. Việc nâng tỷ lệ này, đặc biệt ở các khâu đầu chuỗi và công nghiệp hỗ trợ, sẽ góp phần nâng cao tính bền vững cho doanh nghiệp.
Thứ tư là việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG. Việc triển khai ESG sớm sẽ giúp nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh của thương hiệu quốc gia và doanh nghiệp Việt Nam trong dài hạn.
Cuối cùng là thúc đẩy chuyển đổi kép, gồm chuyển đổi xanh và chuyển đổi số. Xanh hóa sản phẩm và quy trình sản xuất giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn khi tiếp cận các thị trường phát triển. Đồng thời, chuyển đổi số trong quản trị, sản xuất, bán hàng và thanh toán giúp mở rộng quy mô, tăng doanh thu và nâng cao giá trị thương hiệu.
Xin trân trọng cảm ơn ông!