Khách du lịch tới Việt Nam đông đảo năm 2019 thì năm 2020 sụt giảm rõ rệt. (Nguồn: Thanh Niên) |
Thưa ông, dịch Covid-19 xuất hiện sẽ tác động cụ thể ra sao tới ngành du lịch cả trước mắt và lâu dài?
Dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực tới ngành du lịch thế giới cũng như du lịch Đông Nam Á; trong đó có Việt Nam. Không khó để thấy khách du lịch Trung Quốc vốn là thị trường nguồn của rất nhiều nước.
Cụ thể, năm 2019, Thái Lan đón khoảng 11 triệu khách du lịch Trung Quốc, Nhật Bản đón 9 triệu khách và trong số hơn 18.000 khách quốc tế đến Việt Nam cũng có tới 1/3 là khách du lịch Trung Quốc. Chính vì lẽ đó, khi Covid-19 bùng phát tại Trung Quốc, lượng khách du lịch đến các nước lập tức bị ảnh hưởng.
Không những vậy, thị trường khách du lịch Hàn Quốc, Nhật Bản hay các thị trường châu Âu, Mỹ cũng sụt giảm nhất định do Covid-19. Đây là những tác động không tốt cho phát triển du lịch Việt Nam.
Theo kinh nghiệm ứng phó với dịch bệnh, như dịch SARS năm 2003, những tác động của dịch bệnh lên ngành du lịch là điều dễ thấy với sự sụt giảm mạnh lượng khách. Về lâu dài còn ảnh hưởng và phụ thuộc vào thời gian dịch lần này kéo dài hay không. Sau dịch bệnh, để hồi phục ngành du lịch cũng cần có thời gian nhất định.
Trước những ảnh hưởng này, ngành du lịch có giải pháp nào để ứng phó nhằm hạn chế tối đa tác động tiêu cực của dịch bệnh, thưa ông?
Rõ ràng trong thời gian dịch đang diễn ra, việc cần làm để xây dựng được hình ảnh của ngành du lịch là bảo vệ được du khách khỏi ảnh hưởng của dịch bệnh và giảm thiểu tối đa những thiệt hại về kinh tế cho doanh nghiệp, người tham gia làm du lịch.
Ông Phùng Quang Thắng - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Lữ hành Việt Nam. (Nguồn: TTXVN) |
Do đó, một mặt các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc phòng chống dịch theo hướng dẫn của Bộ Y tế và các cơ quan liên quan. Mặt khác, tuy nhiều khách đã hủy tour hoặc thay đổi lịch trình, nhưng đối với khách vẫn đang tham quan tại Việt Nam phải có biện pháp đảm bảo an toàn sức khỏe cho khách du lịch và cả những người làm du lịch. Làm tốt công tác phòng chống dịch cũng sẽ giúp xây dựng hình ảnh du lịch Việt Nam trong mắt du khách quốc tế và nội địa về một điểm đến an toàn.
Tại thời điểm này, việc khách hủy tour rất nhiều đang tác động trực tiếp đến người lao động và chi phí của các doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần tính toán hợp lý để giãn ngày nghỉ bù, nghỉ phép của lao động.
Ngoài ra, tác động của dịch lần này không phải diễn ra ở tất cả các điểm đến, nên một giải pháp nữa được doanh nghiệp tính đến là tìm những điểm đến mới, nơi không có dịch hoặc có dịch, nhưng đã khống chế và kiểm soát được.
Tại thời điểm này, nhiều cơ sở kinh doanh vắng khách, thậm chí không có khách thì tập trung nâng cấp cơ sở vật chất, mở lớp đào tạo cho cán bộ nhân viên... để nâng cao chất lượng phục vụ, chờ đón một mùa khách du lịch mới sau này.
Quan trọng hơn cả, khi đã chia được các hoạt động theo từng giai đoạn (trước, trong và sau dịch), ngành du lịch cần phải chuẩn bị ngay công tác xúc tiến. Dịch bệnh lần này cũng là cơ hội giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm về cơ cấu ngành du lịch, thị trường khách du lịch sao cho phù hợp và giảm thiểu những thiệt hại từ các tình huống rủi ro trong tương lai.
Ông có kiến nghị gì với các doanh nghiệp hay địa phương đang chịu ảnh hưởng của dịch bệnh?
Đối với các doanh nghiệp đang có khách phải tập trung vào phòng chống dịch và đảm bảo an toàn cho nhân viên tại doanh nghiệp đó; đồng thời triển khai giải pháp ứng phó với dịch bệnh phù hợp với hoàn cảnh của từng doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, cần xem xét những chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp khi dịch bệnh đi qua, như chính sách đối với các nhà đầu tư hạ tầng du lịch, các khoản vay, thuế..., thậm chí đối với các ngành liên quan như miễn giảm phí visa cho khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong thời hạn nào đó cũng như tăng thêm gói xúc tiến cho du lịch Việt nhằm giúp ngành du lịch và các doanh nghiệp phục hồi khi dịch đi qua.
Nhu cầu của khách hàng thời 4.0 là nhanh gọn, tiện lợi. Ông có lời khuyên nào với các doanh nghiệp du lịch để giúp khách hàng có những trải nghiệm tốt nhất?
Những sản phẩm du lịch nói chung, nhất là những sản phẩm trải nghiệm về văn hóa, thiên nhiên được xây dựng dựa trên nền tảng là giá trị tài nguyên của từng địa phương. Tuy nhiên, để chuyển tất cả những giá trị đó giúp khách có thể trải nghiệm và đáp ứng nhu cầu của khách hàng hiện nay là nhanh chóng và thuận tiện thì cần tới công nghệ số.
Hiện nay, trước nhu cầu kinh doanh "không biên giới", không ít doanh nghiệp du lịch Việt đang kinh doanh trên nền tảng công nghệ số của nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp số tại Việt Nam cũng nên có hướng xâm nhập thị trường du lịch một cách hiệu quả, chủ động hơn nữa để phối hợp với các doanh nghiệp du lịch nhằm tận dụng thế mạnh của mỗi bên, nói khác đi là một bên có công nghệ số, một bên có công nghệ du lịch để tạo ra những sản phẩm thực tế và tiện ích. Từ đó, doanh nghiệp Việt mới có được chỗ đứng và thị phần trong thị trường số, và ngành du lịch Việt.