Đến hẹn lại lên
Mấy chục năm trước, giữa những nối kéo một thời gian khó chiến tranh và đương thời là những hạn hẹp của bao cấp, xuất hiện ở Hà Nội kiến nghị, gửi đăng hẳn hoi trên báo chí chính thống - rằng nên bỏ Tết, cho đỡ phải… lo Tết.
Xôn xao cả lên, việc tán thành và phản đối. Có cả một luồng cực đoan và phê phán, đến mức một sáng thức dậy, chủ nhân căn nhà đề xuất việc bỏ Tết thức dậy, thấy ngay một hàng chữ cảnh báo trên cánh cửa nhà mình: "Năm nay nhà này mà ăn Tết, tao giết". Gia chủ đã phải báo công an cử người đến bảo vệ.
Một điều gì đó, ở đây, cũng giông giống việc xưa ở Văn Trưng (tên Nôm là Dưng), Vĩnh Phúc - nơi có cả một Tết xuân mồng Sáu tháng Giêng (với trò "Quàng vai bắt trạch", mà đến như các bậc già cả cũng phải nguyền: "Bỏ con bỏ cháu, không bỏ mùng Sáu hội Dưng"!)
Ngày Tết, vậy là không bỏ được, thế thì cứ đến hẹn lại lên, vào lúc năm hết Tết đến là ta chơi Tết, vui Tết và… lo Tết. Có vẻ như cái sự "tự nhiên nhi nhiên" thế này là việc "trôi theo dòng lịch sử" với ít phần tự thức nhưng lại nhiều phần tự phát để thực hiện - làm nên và hưởng thụ - Tết của chúng ta, mà trong đó và ở đây về mặt hiểu biết về quan niệm thì ít nhất cũng mặc nhiên hàm chứa hai vấn đề rất có liên quan: Ta đang coi Tết là một cái gì nhất thành bất biến, do đó dẫn đến chúng ta đang làm biến đổi Tết mà không hay biết (hoặc ít để ý đến).
Tết luôn thay đổi…
Và nếu nhận thức được rõ ràng, đúng đắn về từng nét biến động ấy, cả những nguyên nhân, hoàn cảnh, điều kiện tác động của sự thay đổi, ta sẽ ngộ ra sự thể mình bây giờ đang làm Tết thay đổi như thế nào và nhất là Tết rồi sẽ ra làm sao.
Chẳng hạn, về thời gian (thời điểm) tiến hành (thực hiện) Tết, thì những thế kỷ trước Công nguyên, người cổ ở đất Việt phương Nam này không tổ chức Tết vào mùa Xuân, càng không lấy ngày đầu tháng Giêng làm ngày Tết như người Hoa từ thời nhà Hán ở phương Bắc. Tổ tiên xa xưa của chúng ta ăn Tết và vui Tết vào mùa Thu, lấy ngày đầu tháng Chín làm ngày đầu năm. Điều này đã được chép vào sách Thái Bình hoàn vũ ký. Sở dĩ như vậy là vì thời tiết, rồi thời vụ bấy giờ làm nông nghiệp lúa nước (chỉ một vụ là vụ Mùa) dẫn đến quan niệm định chế về lịch (lịch pháp) của cư dân xứ sở phương Nam, không những không thể giống mà còn xa lạ với phương Bắc. Chính Nguyễn Trãi trong Bình ngô đại cáo cũng đã khẳng định: "Phong tục Bắc Nam cũng khác".
Chỉ đến và từ đầu Công nguyên về sau, trên cơ sở tăng vụ lúa chiêm cho nông nghiệp, nhất là với ảnh hưởng do tiếp biến và cả những cưỡng chế văn hóa của phương Bắc nữa ("Bắc thuộc thời đại"), Tết Nguyên đán vào ngày đầu tháng Giêng mới dần dà mà theo quan niệm và lịch pháp Bắc phương du nhập xuống nước ta. Dần dà nữa, qua hai nghìn năm, thì - với cả nghìn lần biến chuyển - được khoác tấm áo in hai chữ "cổ truyền" để thành ra cái Tết hiện nay, lại cũng đang không ngừng có các thay đổi khác nữa.
Giữa những thay đổi trong quãng thời gian hai nghìn năm trở lại đây của Tết cổ truyền, có câu chuyện về cái bánh chưng mà không ít người nói và tin rằng từ lúc bánh được Lang Liêu sáng tạo ở thời Hùng Vương cho đến bây giờ, đây vẫn là sản vật bất biến làm nên cấu trúc ổn định của văn hóa và nghi lễ Tết, đặc biệt Việt Nam.
Nhưng sự thực lại là: Từ khởi nguyên đến khởi hình, đây chính là chiếc bánh tét (được biến âm từ "bánh Tết") được bảo lưu bền bỉ trong văn hóa và ngôn ngữ miền Nam, kèm với chữ "đòn" (như trong tổ hợp đòn gánh) tố cáo bản chất vốn là có hình ống tròn hệt như chiếc "bánh tầy" (bánh có đầu "tầy"), hoặc bánh hình chiếc chày làm cả chức năng (tượng trưng của chiếc bánh chầy và có đầu tầy để giã cối - động tác tính giao) được bảo lưu ở nhiều vùng nông thôn và miền núi phía Bắc.
Gọn lại, đây chính gốc là vật phẩm tượng trưng và có hình sinh thực khí nam mà cặp đôi với nó là bộ phận sinh sản của nữ - đôi bánh dầy - biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa và xã hội nông nghiệp nước ta xưa. Nhưng đến thời thịnh trị của Nho giáo, các nho gia không thể chịu nổi điều này, tiêu biểu là Tiến sĩ thượng thư Vũ Quỳnh, tác giả của san nhuận sách Lĩnh Nam chích quái đã đem ý nghĩa vũ trụ "trời tròn, đất vuông" thay thế cho tinh thần phồn thực - cổ truyền đích thị của bộ đôi bánh chưng, bánh dầy gốc. Tuy nhiên, sự biến đổi ý nghĩa này chỉ tỏa ảnh hưởng được tới các vùng đô thị và ven đô - nơi nhận được nhiều hơn sự quảng bá của văn hóa cung đình (văn hóa bác học, chính thống). Còn ở nông thôn, sự bảo lưu cái cổ truyền đích thực vẫn nồng đượm. Lễ hội Tết xuân ở Thanh Bình (Phú Thọ) chẳng hạn, đòn bánh tày (tầy) vẫn được đem làm một nghi thức lễ tiết "đâm chầy vào oa" (vị chủ lễ cầm đòn bánh này dúi 3 lần vào tảng đá bẹt có vết nứt ở giữa, thậm chí còn láng nước vào chỗ này.
Ngoài những biến đổi không ngừng qua các thời theo chiều dọc của thời gian, Tết vì có một phổ, trường dung nạp rất rộng, còn tự biến động trên chiều ngang (của một bình tuyến không - thời gian) rất mạnh mẽ bằng cách tích hợp vào nó một cách dung dị, vô cùng nhiều động thái sinh hoạt tinh thần văn hóa và xã hội ở quanh thậm chí từ xa. Bóc tách, phân tích từng nghi thức trong hệ thống mỗi lúc một phình ra của các lễ tiết nhân danh Tết hoặc được thực hành vào dịp Tết, dễ dàng nhận ra điều này. Chẳng hạn, trở lại với những điều ghi chép trong cổ thư Thái bình hoàn vũ ký, nội dung chính nếu không phải là duy nhất của ngày và dịp Tết thu đầu tháng Chín của người Việt cổ chỉ là việc "nam nữ hát đối đáp giao duyên rồi tìm chỗ thanh vắng mà tương hợp". Nhưng từ sự hồn nhiên của tinh thần lứa đôi ban đầu này, dịp Tết cổ truyền đích thực đã neo móc kết nối vào đây biết bao là sự việc và sự tích (như quàng vai bắt trạch, đâm chầy vào oa, rồi tranh cướp nõ nường, và cả việc "tháo khoán" cho những cặp nam nữ nhà nghèo "được tự do kết hôn" lúc giao thừa đời Trần - chép rành rẽ trong sách An Nam trí lược).
Những bất biến giữa vạn biến
Biến đổi luôn luôn và nhiều nhặn là thế, nhưng Tết cũng vẫn hằng có mấy bất biến giữa vạn biến mà chúng ta có thể và cần nhận ra.
Đó, trước hết là cái triết lý của sự tái sinh và đổi mới của Tết và ở trong dịp Tết. Các bậc thức giả, đặc biệt các văn nghệ sĩ là những người có khả năng và công lao hơn cả trong việc phát hiện, hưởng thụ và cổ vũ, quảng bá điều này. Từ quy luật vận động của tự nhiên và mùa màng đúc kết thành "Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng" chuyển hóa thành ý niệm về cái cũ phải "tàng" (hoặc tàn) vào mùa Đông, để cho cái mới tới mùa Xuân thì sinh sôi nảy nở, dẫn đến thế ứng xử "tống cựu nghênh tân" vào dịp Tết.
Thứ hai là đối với cái lẽ sống tự nhiên kết hợp nhuần nhị giữa làm và nghỉ thì Tết chính là dịp để thiên nhiên (chủ yếu thời xưa là đất đai) và con người được nghỉ ngơi (cho nên không động thổ, thậm chí kiêng cả việc quét nhà) mà mưu cầu thực hiện, thực hành việc hạnh phúc, trong đó có hưởng thụ văn hóa ẩm thực, lễ hội, văn nghệ, giao tiếp, lứa đôi…
Và thứ ba chính là cái tinh thần thân tộc và cộng đồng cố kết ở ba điểm cốt yếu: tổ tiên, gia đình và làng mạc tìm thấy ở Tết một miền khu trú hết sức thuận lợi và nơi chỗ phát huy nhiều hiệu quả nhất. Tôn trọng, tưởng nhớ và thờ phụng tổ tiên là một đạo lớn trong thế giới tinh thần Việt Nam. Vào thời Trung cổ và cận đại, khi gia đình là đơn vị hạt nhân cơ bản của xã hội thì cúng gia tiên, lập bàn thờ tổ tiên ở chính giữa nhà để đón mời và được tổ tiên về đoàn tụ, hưởng thụ, chứng giám tấm lòng cùng việc làm của con cháu là việc chính, nếu không phải là lớn nhất của từng nhà trong dịp Tết. Còn từ các gia đình mà nhân rộng ra và liên kết thành cộng đồng, làng xã, thì Tết chính là lúc và dịp mở "hội làng" và "về quê ăn Tết" của tất cả những người có quê hương mà xa xứ, thậm chí chỉ rời làng ra sinh sống ở đô thị.
Chuẩn mực bị đảo ngược
Mấy điều bất biến giữa vạn biến của Tết qua các thời và trên không gian của đất nước như thế cũng chính là "hệ giá trị" để lại từ nghìn lần Tết xưa cho bây giờ. Bởi thế cũng có thể coi đây là mấy chuẩn mực để xem trong việc tiếp tục và đang làm biến đổi Tết của thế hệ ngày nay điều gì là thích hợp và điều gì là không và chưa thích hợp.
Chẳng hạn như chuyện lì xì, chỉ có một hình thức (quy trình) cho tiền trẻ em là giống nhau giữa lì xì và mừng tuổi ngày Tết. Nhưng nếu như sách Việt Nam phong tục (đầu thế kỷ 20) cho biết rõ: "Mừng tuổi" là động thái tượng trưng ("bỏ mấy đồng tiền xu vào túi", đáp lễ việc trẻ nhỏ chúc mừng tuổi tác của ông bà, cha mẹ) thể hiện tinh thần "kính già yêu trẻ", thì hiện tại, người ta chỉ biết "lì xì" là cung cấp ("càng nhiều càng ít") tiền bạc cho trẻ nhỏ tiêu xài ngày Tết, mà ít ai hiểu rằng đây là một phong tục của Trung Hoa từ thời nhà Đường: Vua Đường nhận được và bắt người ta nộp nhiều "lễ vật" ngày Tết quá, bèn trích bớt một phần "lại quả" cho bầy tôi. Nhưng rồi thấy "tưởng thưởng" bằng hiện vật mãi không tiện, nhà vua bèn nghĩ được cách "quy ra lít": Bỏ một ít tiền vào phong bao, đem cho. Cách ấy, tiếng Hán - Việt gọi là "lợi thị", phát âm tiếng Hoa thì thành "lì xì". Như vậy, từ vỏ ngôn ngữ đến ý nghĩa nội dung, "lì xì" là sản phẩm ngoại nhập, khác và trái hẳn với nội dung và ý nghĩa của "mừng tuổi", vì chỉ biểu thị tinh thần lợi lộc.
Cái tinh thần vị lợi (vụ lợi) này còn đang biểu lộ ngày càng rầm rộ ở chuyện "quà Tết". Ngày xưa, dịp Tết cũng là lúc giới quan chức đợi và nhận "quà Tết". Nhưng đấy là việc của những người nhận trách nhiệm và được gọi là "dân chi phụ mẫu", làm cha mẹ của dân. Còn nếu ngày nay, những người là và làm "dân chi công bộc" - đầy tớ của dân, phục vụ nhân dân, mà lại hóa thân - đồng nhất với những "cha mẹ của dân" trong ý thức và hành động biếu - nhận "quà Tết", thế thì không những là làm biến đổi, mà còn chính là làm biến dị, đảo ngược ý nghĩa và giá trị của Tết.
Mấy điều kể làm ví dụ về sự thể đổi thay giữa Tết nay và Tết xưa như thế này, chỉ cần "hữu thức" - tìm hiểu, nghĩ suy - đôi chút là nhận ra ngay. Nhưng có lẽ điều đáng quan ngại hơn, ấy là sự ít tự thức, nhiều tự phát, "vô tư" đối với các ý nghĩa và hệ giá trị đích thực của Tết, "vô tư" mà "ăn Tết", "chơi Tết" xả láng để "sành điệu" khoe sang khoe giàu, hoặc coi Tết chỉ là dịp - may quá - có mấy ngày nghỉ dài (như dịp nghỉ Lễ Quốc khánh, Quốc tế Lao động) thế là "vô tư" mà chơi… bời! Nô nức đi du hí, thậm chí ra cả nước ngoài.