Ông Ramsden cùng các thành viên VietPro tại Triển lãm ảnh ở London, tháng 5/2013. |
Đặt chân tới đây, tôi hầu như không biết sẽ mong đợi điều gì. Tôi cũng chưa xem tấm ảnh nào về Hà Nội. Lúc đó chưa có Internet, người ta biết về nhau ít lắm. Có rất ít người phương Tây đến Hà Nội trong những năm dài chiến tranh ấy. Các hoạt động giao lưu thương mại, du lịch, văn hóa rất nhỏ giọt.
Đại sứ quán Anh thời ấy chỉ có 5 người cùng một số phiên dịch và lái xe người Việt. Tất cả chúng tôi dồn cả vào tầng trệt của một biệt thự ở phố Lý Thường Kiệt với tất tật thiết bị, giấy tờ tài liệu, loa đài… Phương tiện duy nhất giao tiếp với công chúng là bảng tin, nơi chúng tôi dán các hình ảnh về đời sống ở Anh quốc. Thi thoảng có người dừng lại để xem, nhưng khu vực khá vắng vẻ. Phố thì rộng mà hầu như chẳng có xe cộ qua lại.
Tôi là Phó Đại sứ, may mắn được phân một căn hộ ở phía trên các phòng làm việc. Hầu hết các nhà ngoại giao phương Tây ở tại Khách sạn Thống Nhất (nay là Khách sạn Metropole) hoặc một khu chung cư mới xây dựng ở rìa thành phố và không ai có xe riêng. Cộng đồng những người nước ngoài và người dân thành phố có rất ít quan hệ với nhau và cảm giác khá tách biệt.
Hồi ấy, bên ngoài nhìn nhận Việt Nam qua lăng kính của chiến tranh và hệ tư tưởng. Người ta cũng ít biết đến văn hóa và lối sống của người Việt Nam. Tôi cũng không có thời gian học trước tiếng Việt, nhưng tôi thấy mình có thể học bằng cách quan sát cuộc sống hàng ngày, bằng việc tản bộ hàng giờ quanh khu phố cổ, hay đạp xe ra phía hồ Tây. Tôi thường xuất phát vào sáng sớm hay sau giờ làm việc khi trời mát và nắng cũng dịu hơn. Tôi yêu thích khu phố cổ quanh chợ Đồng Xuân, với hoạt động náo nhiệt của các cửa hiệu và những người buôn bán vỉa hè. Hàng hóa xuất xứ từ các làng lân cận và được gồng gánh vào thành phố.
Hồi mới đến, tôi không hề biết Hà Nội là thành phố đã có lịch sử một ngàn năm, một di sản quá khứ hào hùng khiến thành phố rất có khí sắc. Ngoài những địa danh đã nổi tiếng như Văn Miếu còn vô số đền đài khác mà tôi chỉ tình cờ khám phá ra. Tôi cũng bị cuốn hút bởi các đền chùa. Vào cuối tuần, chúng tôi đi thăm các quần thể lớn như Chùa Thày hay Chùa Keo, đồng thời cũng là dịp về vùng nông thôn và quan sát đời sống làng quê. Tôi đặc biệt thích thú các lễ hội như lễ hội ở Đồng Kỵ, ở đó người ta rước những quả pháo khổng lồ quanh các cánh đồng lúa, rồi sau đó đốt ở sân đình.
Suốt thời gian ở Việt Nam, tôi chụp rất nhiều ảnh, cũng là cách khám phá và làm quen với đất nước này. Tôi không giấu diếm việc chụp ảnh nhưng vẫn thường để máy ảnh trong chiếc túi rơm. Chưa ai từng có ý ngăn cản tôi. Mà thực sự tôi chỉ nhận được sự tận tình và lịch thiệp.
Lúc rời Việt Nam, tôi đã có hơn 1.700 phim âm bản đen trắng. Đó là một vùng đất và một quãng thời gian vô cùng đặc biệt và đôi chút đặc biệt đó đã len lỏi được vào trong các tấm ảnh tôi chụp. Nhưng rồi công việc cuốn tôi đi xa châu Á, và các bức ảnh đã nằm trong ngăn kéo suốt 27 năm trời.
Đến thập niên 1990, tôi nhận thấy có những thay đổi đáng kể ở Việt Nam. Có lần tôi nghe các thương nhân trong một quán cà phê ở London hào hứng kể về chuyến đi tới Hà Nội - điều không thể nghĩ tới vào năm 1983. Rồi những cuốn tiểu thuyết và nhật ký tuyệt vời của các nhà văn Việt Nam bắt đầu xuất hiện...
Sau khi tôi nghỉ hưu, số phận ưu ái đã đưa tôi đến với VietPro, một tổ chức của những thanh niên Việt Nam đang làm việc tại London và KREU, tổ chức của các kiến trúc sư và nhà thiết kế người Việt. Tôi kể với họ là tôi đã tổ chức một triển lãm nhỏ dịp kỷ niệm một ngàn năm Hà Nội, nhưng vẫn hy vọng làm được một cái gì đó lớn hơn ở London và thậm chí có thể có sự quan tâm nào ở Việt Nam chăng?
Phản hồi từ phía họ còn hơn cả những gì tôi mong đợi. Hầu hết bạn trẻ xuất sắc này ra đời khi tôi đã rời khỏi Hà Nội và những bức ảnh là cánh cửa hiếm hoi cho họ thấy các thế hệ ông bà, cha mẹ họ. Họ đã nhận triển khai dự án này và trong vòng chưa đầy 6 tháng, họ đã thực hiện được cuộc triển lãm ảnh Hà Nội, Hồn của Đất. Chúng tôi đã rất vinh dự khi được Đại sứ Vũ Quang Minh chính thức cắt băng khai trương triển lãm. Ngày hôm đó, chúng tôi đã được đắm mình trong không khí của Hà Nội xưa, với các bản nhạc thời bấy giờ cùng các thiếu nữ trong tà áo dài quyến rũ và các món ăn Việt Nam.
Triển lãm ảnh ở London kết thúc hôm 4/5. Mục tiêu tiếp theo của chúng tôi là đưa triển lãm về Hà Nội, sau đó là đến TP. Hồ Chí Minh và trong đợt hoạt động kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước.
Tôi rất mong được trở lại Việt Nam sau 30 năm xa cách. Tôi biết mình sẽ được thấy một đất nước đã "thay da, đổi thịt" và tràn đầy niềm hưng phấn cho tương lai. Hạt giống của sự biến đổi đó đã được gieo mầm bởi một thế hệ lỗi lạc mà cuộc đời họ đã được thể hiện trong các bức ảnh của tôi. Triển lãm ảnh này còn là niềm kính phục của chúng tôi đối với lòng can đảm và sự dẻo dai của họ, đối với sức sống bền bỉ của văn hóa và cách sống Việt Nam.
John Ramsden
Nguyên Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam