📞

Hiệp định Geneva: thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam và những bài học còn vẹn nguyên giá trị

Hà Phương 14:09 | 21/07/2022
Cách đây 68 năm, ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến sự và lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được ký kết.
Ngày 4/5/1954, Phái đoàn ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, đến Geneva (Thụy Sỹ) tham dự Hội nghị Geneva về Đông Dương, sau những diễn biến tích cực cho chiến thắng của quân đội Việt Nam tại chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày 8/5/1954, tin về kết quả Chiến dịch Điện Biên Phủ được truyền đến Geneva. Sáng sớm 8/5/1954, vấn đề Đông Dương chính thức được đưa lên bàn đàm phán. (Nguồn: TTXVN)

Kiên định mục tiêu độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tình thế thù trong, giặc ngoài, vận mệnh của chính quyền cách mạng mới được thành lập như “ngàn cân treo sợi tóc”, bằng những nỗ lực ngoại giao tài tình, linh hoạt, mềm dẻo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhân nhượng những gì có thể để bảo vệ nền độc lập non trẻ và mong giữ được nền hòa bình cho đất nước vừa mới trải qua nạn đói khủng khiếp và tác động nặng nề của chiến tranh thế giới và ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Nhưng với dã tâm quyết cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh xâm lược trên cả đất nước Việt Nam.

Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên với ý chí “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh, gian khổ; với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính.

Chiến thắng của quân và dân ta trên khắp các chiến trường mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử đã dẫn đến Hội nghị Geneva về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Ngày 8/5/1954, một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị Geneva về chấm dứt chiến sự và lập lại hòa bình ở Đông Dương khai mạc.

Kiên định mục tiêu cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước khác trên bán đảo Đông Dương, chúng ta đã kiên trì đấu tranh cho một giải pháp toàn diện bao gồm cả quân sự và chính trị.

Ngay từ ngày Hội nghị bắt đầu, đoàn ta đã chủ động triển khai nhiều hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế.

Sau 75 ngày thương lượng, qua 8 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập đằng sau các hoạt động công khai, ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết.

Ngày 21/7, Hội nghị Geneva kết thúc, thông qua Tuyên bố chung bao gồm những nội dung quan trọng như đình chỉ chiến sự, lập lại, duy trì và củng cố hòa bình; tổng tuyển cử thống nhất đất nước và các vấn đề thi hành hiệp định cho toàn bộ Đông Dương.

Kết quả chính của Hội nghị Geneva

Bên cạnh thỏa thuận chung về việc đình chiến toàn Đông Dương, Hội nghị còn có những thỏa thuận riêng với mỗi nước, trong đó có các hiệp định liên quan đến Việt Nam.

Các hiệp định này gồm 4 nội dung chính.

Thứ nhất, đó là những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời hạn 300 ngày, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.

Thứ hai, đó là những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (Sông Bến Hải), vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời, không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân sự mới, cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi miền để phục vụ một chính sách quân sự nào.

Lá cờ đỏ sao vàng treo tại Trụ sở của Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Geneva (Thụy Sỹ), năm 1954. (Nguồn: TTXVN)

Thứ ba, đó là những điều khoản chính trị: vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, Hiệp thương hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử tháng 7/1956, tự do chọn vùng sinh sống khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối phương trong chiến tranh.

Thứ tư, đó là những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm soát liên hợp, Ủy ban giám sát quốc tế trung lập. Hiệp định Geneva 1954 trở thành 1 trong 3 văn kiện ngoại giao quan trọng nhất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Việc đàm phán, ký kết Hiệp định đã để lại những kinh nghiệm quý báu trong quá trình đàm phán tiếp theo tại Hiệp định Paris và những bài học mang tính thời sự cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tiến trình hội nhập.

Thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn

Trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Geneva thành công” ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Hội nghị Geneva đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, các nước lớn đã phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam gồm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Việc ký kết Hiệp định Hội nghị Geneva là một thắng lợi to lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Lần đầu tiên, chính phủ Pháp và "mỗi nước tham gia Hội nghị Hội nghị Geneva cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ...", "tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị" của Việt Nam; quân đội Pháp phải rút về nước, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn và vững chắc cho nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Thắng lợi tại Hội nghị Hội nghị Geneva là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, khát vọng tự do và yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử.

Đây cũng là thắng lợi của đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến, đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; thắng lợi của chín năm kháng chiến trường kỳ gian khổ với những hy sinh to lớn của nhân dân ta.

Hội nghị Geneva 1954 là một “trận đánh” lớn đầu tiên trên vũ đài quốc tế của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam. (Ảnh: QT)

Dấu mốc quan trọng trong lịch sử ngoại giao

Hội nghị Geneva 1954 cũng là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam khi lần đầu tiên bước lên vũ đài đàm phán đa phương với sự tham gia của các cường quốc, để bàn về các vấn đề liên quan đến quyền cơ bản của chính dân tộc mình.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và quan hệ quốc tế có nhiều diễn biến rất phức tạp, các nước lớn tham gia Hội nghị đều theo đuổi những mục tiêu và lợi ích khác nhau, Việt Nam đã giành được thắng lợi, mang lại những quyền lợi to lớn và chính đáng cho dân tộc.

Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva còn có ý nghĩa quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc. Trong bối cảnh phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ, việc một quốc gia nhỏ bé tự giải phóng mình khỏi chế độ thực dân, đấu tranh giành được các quyền dân tộc cơ bản trên bàn hội nghị quốc tế với các cường quốc, đã trở thành nguồn động viên, cổ vũ to lớn đối với các dân tộc thuộc địa, bị áp bức khác trên toàn thế giới.

Từ thắng lợi ở Hội nghị Geneva, dân tộc ta đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử: 21 năm kháng chiến trường kỳ để đất nước sạch bóng quân xâm lược, giang sơn thu về một mối; 10 năm đấu tranh phá bao vây cấm vận và hơn 35 năm đổi mới, đưa đất nước vững bước trên con đường phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Những bài học kinh nghiệm quý báu

Đã 68 năm trôi qua, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi, nhưng Hội nghị Geneva vẫn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau. Trong đó, năm bài học tiêu biểu gồm:

Một là, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, coi đây là mục tiêu và nguyên tắc cao nhất trong đối ngoại. Tình hình quốc tế càng phức tạp, các nước lớn càng chi phối quan hệ quốc tế, ta lại càng cần nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, đồng thời “dĩ bất biến, ứng vạn biến” kiên định trong nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược.

Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Trong đó, tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh nội sinh của đất nước đi đôi với linh hoạt, chủ động tạo thế trong đối ngoại để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Ba là, hiệp đồng trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, qua đó tạo sức mạnh tổng hợp để đi đến thắng lợi cuối cùng. Các mặt trận này được xác định là những mặt trận quan trọng, có tác động qua lại, không tách rời nhau.

Bốn là, nghệ thuật biết thắng từng bước để đi đến chiến thắng hoàn toàn trong bối cảnh chênh lệch tương quan lực lượng. Từ những lợi thế nhỏ, từng phần tạo nên thực lực mới, vị thế mới vì mục tiêu cao nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.