| | Bảo vệ những giá trị thiêng liêng | Ngoại giao luật pháp có thể hiểu là thảo luận, tham vấn, thương lượng, đàm phán ngoại giao song phương và đa phương về các vấn đề pháp lý trong đối ngoại song phương, đa phương. Trong đó, luật pháp quốc tế chính là công cụ, cơ sở pháp lý quốc tế giúp triển khai vững chắc tiến trình hội nhập quốc tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế khu vực và quốc tế, góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích quốc gia dân tộc, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân của Việt Nam. Thực tế cho thấy vai trò của luật pháp quốc tế thể hiện rõ nét trong công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tiến trình Việt Nam chủ động tích cực hội nhập quốc tế, giúp đảm bảo rằng chúng ta đi theo đúng các chuẩn mực quốc tế hiện hành được đông đảo các quốc gia thừa nhận, tạo thuận lợi cho các hoạt động chuyên ngành như kiểm dịch động thực vật, thương mại, đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ, bưu chính, viễn thông… Nhờ đó, tạo thuận lợi cho mở cửa thị trường cho sản phẩm của Việt Nam ra thế giới và tiếp nhận tinh hoa của thế giới vào Việt Nam… | Đồng thời, thông qua hoạt động tại các diễn đàn đa phương, thương lượng, đàm phán nhiều bên, Việt Nam cùng các nước vận dụng luật pháp quốc tế, xây dựng quy chuẩn, quy tắc hợp tác quốc tế để giải quyết các thách thức chung, giải quyết các vấn đề vướng mắc, quản lý xung đột tiềm tàng, ví dụ như thúc đẩy vận dụng Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), đàm phán trong khuôn khổ LHQ về văn kiện pháp lý quốc tế về đa dạng sinh học ở vùng biển ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia (BBNJ). Qua đó, ta thúc đẩy hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giảm thiểu các sức ép của kẻ mạnh, hạn chế căng thẳng, tranh chấp leo thang; thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực và quốc tế. Thành tựu lớn nổi bật nữa của ngoại giao đa phương, ngoại giao luật pháp, đó là Việt Nam đã ứng cử thành công và đảm nhận vị trí quốc gia thành viên của nhiều cơ quan quan trọng của các tổ chức quốc tế, qua đó thúc đẩy việc thảo luận, vận dụng luật pháp quốc tế trên các lĩnh vực. Ví dụ như vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, thành viên Hội đồng Nhân quyền, thành viên Hội đồng chấp hành UNESCO, thành viên Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của LHQ (UNCITRAL), thành viên Hội đồng điều hành của UPU và mới đây là Hội đồng POC của UPU… Đồng thời, Việt Nam đã đề cử thành công chuyên gia luật pháp quốc tế của Việt Nam được bầu và đảm nhiệm tốt vai trò thành viên của Ủy ban Luật pháp quốc tế của LHQ. Như vậy, Việt Nam đã và đang tích cực đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, ngoại giao luật pháp, tham gia xây dựng và vận dụng luật pháp quốc tế để thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, hợp tác quốc tế giải quyết các thách thức, góp phần thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển bền vững ở khu vực và trên thế giới. | | Hành trình 31 năm và nguyên tắc “bất di bất dịch” | Các vấn đề luật pháp quốc tế trong ngành Ngoại giao nói riêng và chính sách, pháp luật trong nước nói chung mang tính chuyên môn sâu, có quan hệ tác động qua lại giữa luật pháp quốc tế và chính sách, pháp luật trong nước, ngôn ngữ pháp lý vừa chặt chẽ, chính xác nhưng cũng đòi hỏi người xử lý vấn đề không được cứng nhắc, phải nắm được tính chất pháp lý-chính trị, biết vận dụng các nguyên tắc luật quốc tế để bảo vệ được chủ trương của Đảng và Nhà nước ta nhằm mục tiêu tối cao là bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Các vấn đề luật quốc tế, trong đó có tư vấn giải quyết khiếu nại, tranh chấp quốc tế, việc đàm phán, xây dựng, ký kết và thực hiện các văn kiện pháp lý quốc tế, bao gồm cả các điều ước quốc tế song phương, nhiều bên, đa phương mà chúng tôi thụ lý đều phải đáp ứng được các yêu cầu khắt khe nhất về pháp lý-chính trị và đây là vấn đề chúng tôi luôn coi là quan trọng nhất. Tôi theo chuyên ngành luật quốc tế và ngoại giao với gần 31 năm trong ngành Ngoại giao, đó là chưa kể 5 năm học trường Đại học Ngoại giao (nay là Học viện Ngoại giao), tôi chú trọng chuyên ngành luật quốc tế với nguyện vọng làm việc chuyên ngành này. Trong suốt cuộc đời công chức tôi gắn bó với luật quốc tế và ngoại giao, đóng góp tích cực cho công tác tư vấn các vấn đề pháp lý quốc tế trong quan hệ đối ngoại, công tác xây dựng pháp luật trong nước, pháp chế ngành ngoại giao, hoạch định chính sách, đàm phán, ký kết điều ước quốc tế song phương và đa phương, giải quyết khiếu nại và tranh chấp quốc tế liên quan đến Nhà nước, Chính phủ, tổ chức và cá nhân của Việt Nam... Tôi đã trực tiếp tham gia đàm phán, xây dựng nhiều điều ước quốc tế song phương quan trọng, trực tiếp tham gia đàm phán, vận động nhiều vấn đề quan trọng tại các diễn đàn đa phương. Trong quá trình đàm phán, thương lượng thì các vấn đề chủ trương, mục tiêu vì lợi ích quốc gia dân tộc luôn là nguyên tắc bất đi bất dịch, được chúng tôi đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, do tính cách phụ nữ, ở bên ngoài tôi luôn thể hiện sự bình tĩnh, mềm mại, uyển chuyển, trong khi bên trong thì luôn giữ khí chất kiên định, mạnh mẽ để vừa vận động, thuyết phục, đấu tranh và tìm khả năng hợp tác. Với tư cách trưởng của nhiều đoàn đàm phán, tham dự các cuộc họp song phương hay hội nghị quốc tế toàn cầu, tôi thấy phụ nữ có một số lợi thế như tính mềm mại mà kiên trì, uyển chuyển mà kiên định, trong khi khó có thể là đối tượng để đối phương dọa nạt hay gây sức ép thô bạo. Ngoài ra, với sự mềm mỏng mà nắm chắc vấn đề sẽ dễ dàng thuyết phục đối tác hơn. | | “Điều bí mật” nằm ngay trong cuộc sống đời thường | Trong ngành Ngoại giao có khá nhiều lĩnh vực chuyên môn chuyên biệt như quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại, kinh tế quốc tế, báo chí, quan hệ lãnh sự, quan hệ ngoại giao, luật pháp quốc tế. Các chuyên ngành này vừa có đặc điểm chuyên biệt vừa có sự liên thông, tương tác với nhau, trong đó có thể nói quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế là bao trùm nhiều lĩnh vực. Nói đến luật pháp quốc tế trước hết là nói đến các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia được ghi nhận tại Hiến chương LHQ, và hàng loạt các quy tắc cụ thể được ghi nhận tại các điều ước quốc tế, văn kiện pháp lý quốc tế, trên hàng loạt các lĩnh vực, được chấp thuận bởi các quốc gia để điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, tổ chức quốc tế, và các nguồn khác của luật tập quán quốc tế. Có không ít người coi luật quốc tế là bí ẩn. Đối với tôi, trải qua gần 31 năm trong ngành Ngoại giao, gắn bó với chuyên ngành luật quốc tế mà tôi đam mê từ thời Đại học, trải qua các vị trí khác nhau, phối hợp với các bộ, ngành trong triển khai hợp tác quốc tế cũng như xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cảm nhận cá nhân của tôi là luật pháp quốc tế không quá bí ẩn. Nhiều nội dung luật pháp quốc tế gắn kết và được thể hiện trong chính sách, pháp luật trong nước, đồng thời ngày càng được quan tâm hơn bao giờ hết, trong công tác liên vụ, công tác đối ngoại, xây dựng ngành của Bộ Ngoại giao; trong phối hợp giữa các bộ, ngành, và các địa phương với các đối tác nước ngoài triển khai công tác đối ngoại, thực hiện các cam kết quốc tế của ta về hội nhập quốc tế theo các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế đa phương, song phương trên các lĩnh vực khác nhau. Luật pháp quốc tế gắn bó với hoạt động ngoại giao, hoạt động đối ngoại cả song phương và đa phương vì luật quốc tế vừa là kết quả của quan hệ quốc tế, quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia và cũng là công cụ để triển khai quan hệ quốc tế, quan hệ ngoại giao, thông qua đàm phán, thương lượng nói chung cũng như ngoại giao luật pháp, tham vấn pháp lý, thúc đẩy hợp tác quốc tế giữa các quốc gia để cùng giải quyết các vấn đề thuộc mối quan tâm chung. Đồng thời, luật pháp quốc tế cũng gắn bó mật thiết, được đưa vào chính sách và pháp luật trong nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau, ví dụ như về quyền cơ bản của con người, quyền của người lao động, quan hệ ngoại giao, quan hệ lãnh sự, thương mại, đầu tư nước ngoài, hải quan, hàng không, quản lý vùng biển thuộc phạm vi quyền tài phán quốc gia… Điều này thể hiện rõ trong thực tiễn trên thế giới, và chúng ta ngày càng thấy rõ cùng với tiến trình hội nhập sâu, rộng của đất nước ở khu vực và trên thế giới, thể hiện ở việc thực hiện các cam kết quốc tế, đàm phán, ký kết hàng loạt điều ước quốc tế song phương, điều ước quốc tế đa phương trên các lĩnh vực trong khuôn khổ ASEAN, LHQ và các tổ chức quốc tế chuyên môn và các cơ chế nhiều bên khác. Tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoạch định chính sách trong nước đều phải bảo đảm tuân thủ Hiến chương LHQ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như Luật Điều ước quốc tế). Các chiến lược phát triển, chính sách của Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực đều có rất nhiều nội dung nội luật hóa, cụ thể hóa các quy tắc của luật quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên. Ví dụ như các quyền cơ bản của con người được ghi nhận tại các điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên đã được cụ thể hóa ở Hiến pháp năm 2013 và các Luật liên quan của ta; các quan hệ ngoại giao, quan hệ lãnh sự, hoạt động của Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, việc xác định và quản lý các vùng biển và hải đảo của Việt Nam được quy định trong pháp luật Việt Nam trên cơ sở nội luật hóa các quy tắc luật pháp quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế có liên quan. Nhiều nội dung hoạt động của các tổ chức quốc tế tại Geneva cũng gắn với việc thực hiện các điều ước quốc tế đa phương trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế đó, hoặc đàm phán văn kiện pháp lý mới điều chỉnh vấn đề mới nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác quốc tế của các quốc gia thành viên, ví dụ như đàm phán trong WTO, WHO. Phương Hằng (ghi) Đồ họa: Phạm Anh Tuấn |