📞

Không thể nóng vội khi làm Ngoại giao Văn hóa

15:00 | 05/02/2019
Chia sẻ với TG&VN về công tác Ngoại giao Văn hóa (NGVH), Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ tịch Uỷ ban UNESCO Việt Nam Lê Hoài Trung khẳng định, công tác này đòi hỏi sự đầu tư thời gian lâu dài và kết quả thường cần có độ trễ nhất định.

Năm 2018, Ngoại giao Văn hóa (NGVH) tiếp tục phát huy vai trò là một trong những trụ cột của Ngoại giao Việt Nam hiện đại. Theo Thứ trưởng, đâu là dấu ấn nổi bật nhất của NGVH trong năm qua và định hướng lớn cho thời gian tới?

Năm 2018 được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhận định tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc giữa Chính phủ với các địa phương (28/12/2018) là năm “đạt được nhiều kết quả quan trọng, có thể nói là toàn diện, đáng mừng trên hầu hết các lĩnh vực...”. Công tác NGVH đã góp phần làm sáng tỏ thêm bức tranh toàn cảnh của đất nước năm 2018. Các hoạt động NGVH được các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các Cơ quan đại diện (CQĐD) Việt Nam ở nước ngoài chủ động, tích cực triển khai với các nội dung, hình thức đa dạng, hấp dẫn, sáng tạo; qua đó đã giới thiệu, quảng bá hiệu quả về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam và làm sâu sắc quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa... với các nước, các tổ chức quốc tế.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ tịch Uỷ ban UNESCO Việt Nam Lê Hoài Trung.

Điều thú vị là, trong 9 dấu ấn đối ngoại Việt Nam năm 2018 do Báo TG&VN bình chọn, có 2 sự kiện NGVH, cụ thể là việc Việt Nam được UNESCO công nhận thêm 2 danh hiệu quốc tế mới và Đội tuyển Việt Nam vô địch AFF Cup. Tôi cũng nhất trí cho rằng, đây chính là 2 dấu ấn nổi bật của NGVH trong năm qua. Danh hiệu UNESCO góp phần khẳng định giá trị, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam trên “bản đồ” văn hóa thế giới, tạo sức hút, thương hiệu và trở thành một nguồn lực giúp địa phương, đất nước phát triển bền vững. Thành tích ấn tượng và “ý chí kiên cường, nêu cao phẩm chất, bản lĩnh và tinh thần cao thượng của con người Việt Nam” của các tuyển thủ Việt Nam như nhận định Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng với vai trò của Huấn luyện viên trưởng Park Hang-seo, đã không chỉ làm nức lòng cả nước mà còn góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược và làm sâu sắc thêm tình cảm giữa Việt Nam-Hàn Quốc.

Trong năm 2018, chúng ta đã triển khai thành công một số hoạt động NGVH nổi bật như việc tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nước ngoài được tổ chức bài bản, đạt được hiệu quả cao. Qua đó, tôn vinh các giá trị cao đẹp của người Việt Nam, góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ Việt Nam với nước sở tại. Chương trình Tuần/Ngày Việt Nam tại Ấn Độ và Canada đã tạo hiệu ứng tích cực trong việc thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ, quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam – Canada.

Nhiều sự kiện được các CQĐD của ta tổ chức với quy mô phù hợp, phương châm tiết kiệm, hiệu quả, để lại dấu ấn đậm nét đối với chính giới, người dân bản địa và kiều bào đang sinh sống, học tập ở nước sở tại, trong đó có những sự kiện thu hút hàng trăm ngàn người dân và quan khách các cấp của sở tại như Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản, Hàn Quốc... Chương trình Mỹ thuật Việt Nam và Ngoại giao Văn hóa đã chuyển tới 17 CQĐD Việt Nam ở nước ngoài hơn 100 tác phẩm tranh vẽ của các họa sỹ với nhiều chủ đề, chất liệu và nội dung phong phú để trang trí, làm đẹp không gian CQĐD, từng bước góp phần xây dựng, chuẩn hóa góc văn hóa Việt Nam.

Ở trong nước, chúng ta đã tổ chức nhiều sự kiện lớn như Năm du lịch Quốc gia tại Quảng Ninh, Lễ hội bánh dân gian Nam Bộ tại Cần Thơ, Ngày quốc tế Yoga hay Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ V... góp phần quảng bá, nâng cao hình ảnh Việt Nam một cách hiệu quả. 

Năm 2019, chúng ta cần tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết và Chương trình hành động của Hội nghị Ngoại giao 30 đối với công tác NGVH. Theo đó, cần tập trung triển khai hiệu quả “Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020”, chuẩn bị tổng kết để đề ra phương hướng cho giai đoạn tiếp theo; tích cực triển khai Đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài” hướng tới kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc và 130 năm ngày sinh của Bác; triển khai tổ chức Tuần/Ngày Việt Nam tại một số nước; đẩy mạnh các hoạt động NGVH thiết thực nhằm thu hút sự quan tâm và tham gia của các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc ở trong nước cũng như sự hưởng ứng và tham gia của các bên liên quan của các nước chúng ta hướng đến.

Chúng ta cũng sẽ tiếp tục các nỗ lực để đạt thêm các danh hiệu quốc tế, qua đó vừa góp phần mang lại giá trị gia tăng cho các di sản của đất nước, vừa góp phần làm giàu kho tàng di sản của nhân loại. Chúng ta sẽ tiếp tục nâng cao nhận thức về NGVH vì Ngoại giao Văn hóa cũng như Văn hóa là sự đầu tư đòi hỏi thời gian lâu dài và kết quả thường cần có độ trễ nhất định mới thể hiện được ra.

NGVH là một công cụ quan trọng để phát huy “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia, đặc biệt trong việc xây dựng thông điệp, hình ảnh và quảng bá thương hiệu quốc gia, thương hiệu địa phương. Thứ trưởng có bình luận gì về quan điểm này?

Gần đây chúng ta hay sử dụng từ “sức mạnh mềm”. Thực chất đó chính là một cấu thành của “sức mạnh tổng hợp Việt Nam” đã được nhiều thế hệ người Việt xây dựng và bồi đắp.

Đó là tổng hòa của nhiều yếu tố như thể chế chính trị, nền tảng tư tưởng, truyền thống dân tộc, phẩm chất con người, các di sản vật thể, phi vật thể và nhiều yếu tố khác.

Đây cũng chính là những yếu tố cần có để xây dựng thành công thông điệp, hình ảnh, thương hiệu quốc gia cùng thương hiệu ngành nghề, địa phương. Như vậy có thể thấy, mối quan hệ qua lại không thể tách rời giữa hai nội dung trên. Khi xây dựng thành công, bản thân thông điệp, hình ảnh quốc gia, thương hiệu ngành nghề, địa phương chính là thành tựu văn hóa và trở thành thành tố của sức mạnh mềm Việt Nam.

Với vai trò mở đường, xúc tác, quảng bá, vận động, tiếp thu, NGVH là một phương thức truyền tải sức mạnh mềm Việt Nam ra thế giới, góp phần truyền tải thông điệp về một Việt Nam năng động, đổi mới, sáng tạo, một điểm đến an toàn, hấp dẫn. Nhiều di sản văn hóa của ta được UNESCO công nhận, vinh danh thể hiện sự hấp dẫn cũng như sức lan tỏa trong “sức mạnh mềm” của văn hóa Việt Nam.

 Sự tham gia có trách nhiệm và hiệu quả của ta trong các tổ chức, diễn đàn đa phương về văn hóa cũng góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Phát biểu về NGVH, Thứ trưởng từng nhấn mạnh về sự cần thiết phải chuyển biến về nhận thức và hành động. Thứ trưởng có thể chia sẻ thêm về thông điệp này?

Tọa đàm “NGVH trong giai đoạn mới” được tổ chức ngày 31/5/2018 đã góp phần xác định rõ hơn nữa khái niệm, nội hàm, phương thức triển khai NGVH cũng như các yêu cầu đặt ra đối với NGVH trong giai đoạn mới. Sau đó, tại Hội nghị Ngoại giao 30 đã khẳng định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngoại giao là nâng cao hiệu quả của công tác NGVH và xác định trong thời gian tới chúng ta cần “đẩy mạnh nghiên cứu, đề xuất nội dung, hình thức mới về NGVH nhằm làm sâu sắc vai trò NGVH là một trụ cột của công tác ngoại giao hiện đại Việt Nam”.

Với nhận thức đó, các hoạt động NGVH trong năm qua và thời gian tới sẽ tiếp tục được triển khai với tinh thần “trọng tâm, trọng điểm, phù hợp địa bàn và hiệu quả, thiết thực” ở cả trong và ngoài nước cùng sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Chỉ có như vậy, công tác NGVH mới phát huy hết vai trò của mình, làm nổi bật hình ảnh Việt Nam là điểm đến hấp dẫn, an toàn và có lợi đối với các nhà đầu tư, kinh doanh và du khách quốc tế, cũng như truyền tải rõ ràng các thông điệp hòa bình, truyền thống hòa hiếu, quyết tâm giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình cũng như ý chí bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Với cương vị là Chủ tịch UBQG UNESCO Việt Nam, xin Thứ trưởng cho biết quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - UNESCO đã đóng góp như thế nào cho công tác NGVH?

Năm 2018 vừa qua, cùng với đà tăng trưởng tích cực của nền kinh tế đất nước và những thành công ấn tượng trong công tác đối ngoại, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và UNESCO được tăng cường trên nhiều mặt. Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các công việc chung của UNESCO, từ hoạch định chính sách đến các vấn đề chuyên môn như bảo tồn và phát huy giá trị các di sản thiên nhiên, văn hóa, di sản phi vật thể thế giới, thúc đẩy công nghiệp văn hóa, cải cách tổ chức, bộ máy, thủ tục và quy trình làm việc… tại UNESCO.

Quan hệ Việt Nam - UNESCO tiếp tục đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững. Bên cạnh văn hóa, hai bên đẩy mạnh hoạt động trên các lĩnh vực cùng quan tâm, nhất là giáo dục và khoa học tự nhiên. Việt Nam đang phối hợp với UNESCO thúc đẩy việc quản lý Không gian Biển và xây dựng bộ chỉ số đánh giá nền giáo dục quốc gia. Năm 2018 UNESCO công nhận hồ sơ “Non nước Cao Bằng” là Công viên địa chất toàn cầu và “Hoàng hoa sứ trình đồ” là Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nâng tổng số các loại hình danh hiệu của Việt Nam được UNESCO công nhận lên 38. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các loại hình danh hiệu đã được UNESCO công nhận cũng được tăng cường. Việt Nam tiếp tục thực hiện nghiêm túc cam kết và các quy định của UNESCO trong việc quản lý, bảo tồn các danh hiệu đã được UNESCO công nhận.

Những thành tích trên đã góp phần tăng cường vai trò, vị trí của Việt Nam tại UNESCO nói riêng và trên trường quốc tế nói chung; quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam đối với bạn bè trong khu vực và trên thế giới; khơi dậy lòng tự hào, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; tận dụng tri thức, kinh nghiệm và các nguồn lực của UNESCO phục vụ công cuộc phát triển đất nước một cách bền vững. Điều này góp phần thực hiện các mục tiêu của NGVH nói riêng và của công tác đối ngoại nói chung là phục vụ hòa bình, an ninh, phát triển và tăng cường vị thế đất nước trên trường quốc tế.

Xin cảm ơn Thứ trưởng!

(thực hiện)