(Ảnh minh họa) |
Tạo điều kiện để người dân giám sát
Ông Võ Tuấn Nhân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, mặc dù Luật Bảo vệ môi trường đang được cụ thể hóa, song nhiều vấn đề về xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại về môi trường trong thực tiễn vẫn còn vướng mắc.
Điển hình như năm 2013, hàng loạt doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý. Tuy nhiên, phần lớn các vụ việc này, thông tin là do người dân cung cấp. Điều này cho thấy, người dân đóng vai trò rất quan trọng trong việc chống lại các hành vi gây hại môi trường.
Chính vì vậy, để kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường, ông Nhân cho rằng, Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) cần quan tâm tới sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương. Cùng với đó, cần quy định chi tiết, rõ ràng cụ thể hơn các nguyên tắc xác định thiệt hại của tổ chức, cá nhân do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường. “Dự thảo phải quy định cụ thể các đối tượng bắt buộc mua bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiêt hại về môi trường; cũng như các đối tượng, phạm vi phải mua phí bảo hiểm thiệt hại về môi trường….”, ông Nhân nhấn mạnh.
Áp dụng cơ chế giám sát mới
Nhìn từ góc độ quốc tế, ông Bakhodir Burkanov, Phó Giám đốc UNDP Việt Nam nhận định, Việt Nam đã đạt được phần lớn các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của mình trước kỳ hạn đề ra là năm 2015. Tuy nhiên, Việt Nam rất có khả năng không đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ thứ bảy về môi trường đặc biệt ở lĩnh vực cung cấp nước sạch, cải thiện điều kiện vệ sinh, đa dạng sinh học.
Theo ông Bakhodir Burkanov, dự thảo Luật cần phải bảo đảm được tính nhất quán và hài hòa trong quản lý nhà nước và kế hoạch phát triển quốc gia. Bảo vệ môi trường đất nước, đa dạng sinh học, khoáng sản, tài nguyên biển và ven biển cần phải được lồng ghép hài hòa vào quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch quốc phòng.
“Luật nên tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức của người dân tham gia vào việc giám sát các vụ ô nhiễm môi trường, xây dựng cũng như thông qua các công cụ đánh giá ảnh hưởng môi trường”, ông Bakhodir Burkanov nói.
Cũng theo ông Bakhodir Burkanov, các nhà làm luật cần xem xét việc áp dụng những cơ chế giám sát mới nhằm nâng cao việc giám sát thi hành Luật Bảo vệ môi trường. Cơ chế này bao gồm cả thị sát thường xuyên lẫn kiểm tra đột xuất cơ sở để kịp thời đánh giá tình hình thực tế và phát hiện những vấn đề có nguy cơ xảy ra.
“Đặc biệt, Luật cần cho phép sự tham gia một cánh hiệu quả của truyền thông và người dân địa phương cũng như bảo đảm thông tin cởi mở và minh bạch liên quan đến thi hành luật và giám sát thi hành luật,” ông Bakhodir Burkanov khuyến nghị.
Kinh nghiệm từ Indonesia
Chia sẻ về kinh nghiệm giải quyết tranh chấp môi trường, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Indonesia, bà Masnellyarti Hilman cho biết, tại Indonesia, mọi tranh chấp về môi trường đều có thể được giải quyết thông qua tòa án hoặc ngoài tòa án.
Việc kiện lên tòa án chỉ có thể được chấp nhận trong trường hợp một bên tranh chấp bất kỳ tuyên bố rằng việc giải quyết tranh chấp ngoài tòa án đã thất bại. Chính phủ, chính quyền địa phương, cộng đồng, tổ chức môi trường ở Indonesia đều có quyền khởi kiện về môi trường.
Điều đặc biệt là tất cả mọi người dân Indonesia đều có thể nộp đơn kiện chống lại bất kỳ quyết định quản lý Nhà nước nào trong trường hợp: Cơ quan hoặc cán bộ hành chính Nhà nước cấp giấy phép môi trường cho hoạt động thương mại và/hoặc hoạt động khác bắt buộc phải có đánh giá ảnh hưởng môi trường nhưng hoạt động kinh doanh và/hoặc hoạt động khác được cấp trên không có đánh giá ảnh hưởng môi trường; Cấp giấy phép kinh doanh và/hoặc thực hiện hoạt động không có giấy phép môi trường.
Luật pháp của Indonesia cũng quy định tất cả mọi người có hoạt động, kinh doanh và/hoặc hoạt động sử dụng B3, sản xuất và/hoặc quản lý chất thải B3 và/hoặc gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với môi trường phải chịu trách nhiệm hoàn toàn các thiệt hại phát sinh mà không cần thiết phải biện hộ về bản chất của sai lầm. Mức bồi thường được tính toán dựa trên ô nhiễm và/hoặc loại thiệt hại môi trường và tình trạng chủ sở hữu của khu vực thiệt hại hoặc ô nhiễm môi trường.
Theo bà Masnellyarti Hilman, để giải bài toán tranh chấp về môi trường hiệu quả, chính quyền phải giám sát môi trường định kỳ; điều tra dân số hàng năm; tất cả các quy định về tiêu chuẩn môi trường phải do Chính phủ chỉ định; quy định cụ thể mức bồi thường ô nhiễm môi trường và/hoặc định giá thiệt hại môi trường; đồng thời cần có dữ liệu hình ảnh vệ tinh, khí tượng, khí hậu, dữ liệu địa lý và lựa chọn chuyên gia đối với từng loại tác động khác nhau.
Taị Hội thảo các đại biểu tham dự cũng tập trung thảo luận các vấn đề liên quan đến quy hoạch; bảo vệ môi trường trong điều kiện ứng phó với biến đổi khí hậu; công ước quốc tế liên quan đến chất thải, rác thải và hóa chất độc hại…
Luật Bảo vệ môi trường 2005 gồm 15 chương và 136 Điều nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật BVMT năm 1993. Qua 8 năm thực hiện, Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội đối với môi trường. Tuy vậy, Luật BVMT 2005 cũng bộc lộ những điểm còn bất cập. Để khắc phục những hạn chế, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi). |
Kim Giang