Đầu tư công nghệ Mỹ-Trung đang sụt giảm nhanh chóng - Ảnh minh họa. (Nguồn: Getty Images) |
Sau hơn một thập kỷ đổ xô đến Trung Quốc, các nhà đầu tư mạo hiểm của Mỹ những năm gần đây đã hạn chế đáng kể đổ tiền vào lĩnh vực công nghệ của nước này. Nguyên nhân chính là căng thẳng địa chính trị gia tăng và ngày càng nhiều các quy định hạn chế đầu tư đến từ chính quyền Washington và Bắc Kinh.
“Rơi xuống vực thẳm”
Theo dữ liệu từ công ty nghiên cứu PitchBook (Mỹ), tổng giá trị đầu tư từ Mỹ vào lĩnh vực công nghệ Trung Quốc năm ngoái đã tụt xuống 7,2 tỷ USD, giảm đáng kể so với thời kỳ đạt đỉnh 35,6 tỷ USD năm 2018. Số giao dịch đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua. Công ty nghiên cứu thị trường S&P Global (Mỹ) cho rằng, căng thẳng leo thang giữa hai nước cùng các chính sách chống dịch Covid-19 của Trung Quốc đã dẫn đến không ít vấn đề trong chuỗi cung ứng và “khiến nhiều nhà đầu tư phải thận trọng”.
Theo một luật sư giấu tên tại Thượng Hải từng cố vấn cho giới đầu tư Mỹ và Trung Quốc, các khoản đầu tư công nghệ hai bên đã “rơi xuống vực thẳm” trong nửa sau nhiệm kỳ của ông Donald Trump với “90% nguyên nhân là về chính trị”.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngay cả khi ông Donald Trump rời ghế Tổng thống, tình hình không có vẻ khả quan hơn. Chính quyền của ông Joe Biden đã tiếp tục, thậm chí mở rộng một số đường lối cứng rắn của người tiền nhiệm với Bắc Kinh bằng các hạn chế xuất khẩu linh kiện bán dẫn tiên tiến trên diện rộng, bên cạnh lệnh cấm leo thang nhanh chóng với TikTok - ứng dụng mạng xã hội do một công ty Trung Quốc sở hữu.
Washington cũng áp đặt thêm các biện pháp bảo vệ trước đầu tư công nghệ của Trung Quốc vào Mỹ thông qua một sắc lệnh hành pháp vào tháng Chín năm ngoái. Biện pháp tương tự có thể được áp dụng đối với các khoản đầu tư ra nước ngoài của Mỹ, dự kiến được chính thức công bố vài tháng tới.
Các quỹ đầu tư dường như đã chuẩn bị tinh thần. Sequoia Capital, một trong những công ty đầu tư lớn nhất ở Thung lũng Silicon có danh mục đầu tư ở Trung Quốc bao gồm công ty mẹ ByteDance của TikTok, được cho là đã mời các chuyên gia an ninh quốc gia để sàng lọc các thương vụ tại Trung Quốc. Chi nhánh của công ty này ở Trung Quốc đã huy động được hơn 8 tỷ USD vào năm ngoái.
Theo bà Rui Ma, nhà phân tích và đầu tư công nghệ có trụ sở tại San Francisco (Mỹ), người sáng lập trang web Tech Buzz China, đầu tư về công nghệ giữa hai nước hiện đang bị ngưng trệ. Các hạn chế khiến các quỹ đầu tư Trung Quốc nặng gánh hơn khi đầu tư vào các ngành công nghệ Mỹ. Mối đe dọa và lệnh hạn chế sẽ khiến nhiều công ty Mỹ khó có thêm các thương vụ lớn tại Trung Quốc.
Nhà phân tích và đầu tư công nghệ này cho biết: “Đầu tư mạo hiểm đều xoay quanh vấn đề quản lý rủi ro, bao gồm rủi ro kinh doanh, thị trường và đôi khi là rủi ro công nghệ khi đầu tư vào các công ty này. Vì vậy, các công ty này chắc chắn không muốn rước thêm rủi ro địa chính trị hoặc liên quan tới chính sách, đặc biệt là khi những thứ đó nằm ngoài tầm kiểm soát của họ.”
Ngày 23/3, CEO TikTok Shou Zi Chew tham dự phiên điều trần trước Quốc hội Mỹ nhằm giải đáp một số quan ngại liên quan đến ứng dụng này. (Nguồn Getty Images) |
Xu hướng mới
Trong khi đó, ông Andy Tang, đối tác tại quỹ đầu tư mạo hiểm Draper Associates (Mỹ), đã thành lập quỹ Draper Dragon tại Trung Quốc năm 2006 nhằm tập trung vào các khoản đầu tư xuyên biên giới giữa hai nước. Năm 2010, nhà đầu tư này trở lại khu vực Vịnh San Francisco, trong khi Draper Dragon vẫn đang hoạt động. Hiện quỹ này đang được điều hành bởi các thành viên Trung Quốc và huy động vốn từ các nhà đầu tư tại đây, bằng đồng tiền ở nước sở tại.
Ông nhận định: “Đối với chúng tôi, việc phân mảng đầu tư thực sự đã bắt đầu từ năm 2015. Cho đến hôm nay, đầu tư của công ty đã hoàn toàn tách rời - đầu Mỹ phụ trách đầu tư của Mỹ, đầu Trung Quốc phụ trách các khoản đầu tư của Trung Quốc. Chúng tôi vẫn chung một thương hiệu và di sản, nhưng việc phân tách này diễn ra một cách rất tự nhiên”.
Ông cho biết, các nhà đầu tư Mỹ và Trung Quốc đang có xu hướng đầu tư trong nước, một phần do “các lực lượng thị trường”, các cơ hội đầu tư và vốn ở cả hai nước, hiện đang dồi dào, một phần bởi sự nhận thức về môi trường địa chính trị.
Tại Thung lũng Silicon, các công ty ngày càng thận trọng, bất kể có cảnh báo từ Washington hay không. Ông Jeff Fields, trợ lý phụ trách các hoạt động phản gián tại Văn phòng Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) tại San Francisco, cho biết các công ty ngày càng chủ động tiếp nhận cảnh báo của FBI về hoạt động gián điệp qua đầu tư. Công việc chính của ông là nói chuyện với các thành viên của Thung lũng Silicon, bao gồm những người sáng lập công ty khởi nghiệp, nhà đầu tư và học giả, để cảnh báo về nguy cơ kẻ thù ăn cắp hoặc lạm dụng công nghệ, thường là thông qua các phương pháp hợp pháp như liên doanh và đầu tư chiến lược.
Chuyên gia của FBI nêu rõ: “Các đối thủ (đặc biệt là Trung Quốc) rất thành thạo trong việc nhận ra từng điểm yếu trong hệ sinh thái và khai thác nó, thông qua các cách gián điệp theo kiểu truyền thống và bằng một số phương tiện dễ che giấu hơn… Họ muốn các công ty tham gia liên doanh là để tận dụng luật pháp và chính sách trong nước nhằm gây bất lợi cho các công ty không thuộc Trung Quốc”.
Đồng thời, ông Jeff Fields cho biết gần đây, số lượng công ty trong Thung lũng Silicon sẵn sàng hợp tác với họ đang “gia tăng theo cấp số nhân”, một phần vì xung đột tại Ukraine đã khiến Mỹ phải dè chừng mối đe dọa về hoạt động gián điệp nước ngoài, vốn tưởng chừng như một khái niệm rất trừu tượng trước đó.
“Đầu tư mạo hiểm đều xoay quanh vấn đề quản lý rủi ro, bao gồm rủi ro kinh doanh, thị trường và đôi khi là rủi ro công nghệ khi đầu tư vào các công ty này. Vì vậy, các công ty này chắc chắn không muốn rước thêm rủi ro địa chính trị hoặc liên quan tới chính sách, đặc biệt là khi những thứ đó nằm ngoài tầm kiểm soát của họ”. |
Sau cơn mưa trời có sáng?
Tuy vậy, vẫn có những ngoại lệ. Tháng Giêng vừa qua, Quỹ Snow Bull của ông Taylor Ogan đã chính thức được chuyển từ Boston (Mỹ) đến Thâm Quyến, thành phố được coi là trung tâm công nghệ của Trung Quốc sau nhiều nỗ lực và giấy tờ.
Gần đây, Ông Ogan cùng hai cộng sự đã được chính quyền Bắc Kinh cho phép thuê nhân sự tại địa phương. Trả lời phỏng vấn hồi tháng Ba, ông Ogan nhận định các cơ hội đầu tư tại Trung Quốc đều đang chín muồi và ông cảm thấy tiếc vì đã không chuyển tới đây sớm hơn. Tuy nhiên, ông thừa nhận quyết định dốc toàn lực vào Trung Quốc khiến nhà đầu tư này lẻ loi trong cộng đồng đầu tư Mỹ.
Ông nói: “Thật khó để thuyết phục các nhà đầu tư mạo hiểm khác tại Mỹ rằng ở đây rất nhiều cơ hội, kể cả khi họ tự nhìn thấy. Các công ty khởi nghiệp tại Trung Quốc giờ đây không còn phụ thuộc và cung phụng các quỹ đầu tư từ Mỹ, khác hoàn toàn so với ba, bốn năm trước bởi các công ty lớn của Trung Quốc đang “ném tiền” vào các công ty khởi nghiệp này”.
Dù lo ngại rằng lệnh hạn chế sắp tới của Mỹ cùng môi trường đối đầu ngày càng căng thẳng giữa hai nước, Ogan tin rằng “các công ty Trung Quốc sẽ tìm ra lỗ hổng”, đồng thời công ty của ông sẽ không phải đối mặt với áp lực từ giới chức Trung Quốc.
Ông nêu: “Chúng tôi có kế hoạch dự phòng cho mọi thứ. Tuy vậy, một khi ta hiểu Trung Quốc nhiều hơn, các nguy cơ cũng ít hơn”.
Trong bối cảnh đầu tư vào lĩnh vực công nghệ ngày càng tiềm năng, câu hỏi lớn nhất của giới đầu tư công nghệ hiện nay là tình trạng “mất kết nối" này sẽ tiếp diễn hay liệu thời hoàng kim sẽ trở lại?
Với những người như ông Tang, dù “thất vọng” với hiện tại, song họ vẫn tin vào tương lai tươi sáng hơn: “Theo tôi, cả hai nền kinh tế lớn nhất thế giới hiểu rằng sự phân tách sẽ không có lợi. Vì vậy, sớm muộn họ sẽ phải hàn gắn với nhau”.
Tuy nhiên, một số khác lại không lạc quan hơn. Một cố vấn pháp lý tại Thượng Hải cho giới đầu tư Mỹ và Trung Quốc nhận định: “Trừ khi có phép màu xảy ra, tình trạng này sẽ còn duy trì trong 10 hoặc 15 năm tới”.