📞

Sự kiện Trân Châu Cảng: Khổ nhục kế của chính phủ Mỹ?

11:14 | 12/12/2011
Ngày 7/12/2011, nước Mỹ kỷ niệm lần thứ 70 cuộc tấn công Trân Châu Cảng bằng cách treo cờ rủ và cử hành phút mặc niệm vào thời khắc cuộc tấn công thay đổi lịch sử khai diễn. Tuy nhiên, suốt bảy thập kỷ qua, nhiều lý thuyết gia vẫn tin rằng đó là khổ nhục kế của Tổng thống F.D. Roosevelt để thuyết phục người Mỹ về sự cần thiết can dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai.
Chiến hạm USS Arizona của Mỹ bị nhấn chìm trong cuộc tập kích của Nhật vào Trân Châu Cảng năm 1941.

Ngày 7/12/2011, các buổi lễ đã được cử hành từ Trân Châu Cảng ở Hawaii đến Thủ đô Washington tại bờ Đông nước Mỹ nhằm tưởng niệm 2.400 người Mỹ thiệt mạng vào ngày này 70 năm về trước, khi Nhật Bản bất ngờ tấn công vào Hạm đội Thái Bình Dương (TBD) của Mỹ. Tổng thống Mỹ B. Obama đã phát biểu: “Vào một sáng Chủ nhật thanh bình cách đây 70 năm, bầu trời bên trên Trân Châu Cảng (TCC) tối sầm lại bởi bom của quân Nhật trong một cuộc tấn công đột ngột vốn thử thách sự kiên cường của các lực lượng vũ trang và ý chí của quốc gia”. Song liệu nó có thật sự bất ngờ với chính phủ Mỹ?

Tạo một cái cớ thuyết phục

Vào đúng 7 giờ 55 phút của ngày định mệnh, Nhật Bản đã oanh tạc Hạm đội TBD trú tại Hawaii. Trong hai giờ đồng hồ, khoảng 20 tàu đã chìm hoặc hư hại và 164 máy bay bị phá hủy. Trong số 2.400 người thiệt mạng, gần một nửa bị tiêu diệt chỉ trong vài giây trên chiến hạm USS Arizona khi một quả bom làm phát nổ kho đạn trên tàu.

Mặc dù nước Mỹ gọi đây là cuộc tấn công bất ngờ của Nhật Bản, nhưng theo giới phân tích chính trị thì Tổng thống Roosevelt đã biết trước về cuộc tấn công này, song chọn cách “im lặng” vì ông tin rằng cú sốc của cuộc tấn công sẽ thuyết phục người Mỹ về sự cần thiết can dự vào cuộc chiến. Quả nhiên, chỉ một ngày sau vụ tấn công ở Trân Châu Cảng, được sự chấp thuận của Quốc hội Mỹ, Tổng thống Roosevelt đã tuyên chiến với Nhật Bản, chính thức đưa nước Mỹ tham gia vào Thế chiến thứ hai.

Để củng cố thêm nhận định, giới phân tích còn lập luận, chẳng nhẽ các radar của quân Mỹ không thể phát hiện nổi 6 chiếc tàu chiến của Nhật chở theo 400 chiếc máy bay đậu cách mục tiêu 350km?

Hơn nữa, tối 6/12/1941, ngay trước ngày Nhật Bản tấn công TCC, tại Nhà Trắng, Tổng thống Roosevelt đã triệu tập một cuộc họp hiếm có mà thành phần tham dự là những cố vấn chiến tranh cao cấp, trong đó có Đô đốc Hải quân Mỹ Knox, Tư lệnh Tác chiến Hải quân Stark, Bộ trưởng Chiến tranh Stimson và Cố vấn Tình báo Harry Hopkins. Không khí trong phòng Bầu dục hết sức nặng nề. Dường như họ đang chờ đợi những gì sắp xảy ra với lực lượng quân hạm TBD của Mỹ tại TCC? Thậm chí sau cuộc tấn công, một nghi vấn lịch sử được đặt ra với câu nói đầy ám chỉ của Đô đốc Hải quân Knox với người bạn thân James Steinman rằng ông ta đang giữ một bí mật lớn của lịch sử.

Theo cơ quan giải mã MAGIC của Mỹ, năm 1941, trung bình mỗi tuần, MAGIC thu và giải 200 bản mật mã, trong đó có nhiều thông tin liên quan đến TCC. Ví dụ, ngày 24/9/1941, Hải quân Nhật gửi điện mật đến Lãnh sự quán Nhật tại Mỹ yêu cầu tìm hiểu vị trí neo đậu của các quân hạm Mỹ tại TCC. Ngày 15/11/1941, Nhật lại yêu cầu Tổng lãnh sự Nhật tại Mỹ phải gửi báo cáo về động thái của các quân hạm Mỹ tại đây ít nhất là 2 lần/tuần. Ngày 18/11/1941, Lãnh sự quán Nhật đã đánh điện mật thông báo cho quân đội Nhật biết về thời gian cũng như góc độ thay đổi phương hướng của những quân hạm Mỹ sau khi tiến vào Trân Châu Cảng…

MAGIC đều mang những thông tin quan trọng nhất trình lên Tổng thống, Tham mưu trưởng Lục quân và Hải Quân, Cục trưởng Cục Tình báo, Bộ trưởng Tác chiến cùng các đầu não quân chính khác. Có thể nói chắc chắn rằng chính phủ Mỹ đã gần như nắm được toàn bộ ý định của Nhật nhằm vào TCC. Thế nhưng chính quyền Mỹ lại không hề thông báo cho Đô đốc Hạm đội TBD E.Kimmel và Tư lệnh Căn cứ Hawaii - Trung tướng lục quân Walter Short, về việc quân hạm TBD sắp bị Nhật Bản tấn công.

Vì vậy, sau khi hạm đội TBD thất thủ, Đô đốc Kimmel đã trả lời thẳng trước Ủy ban Điều tra Quân sự Mỹ rằng: "Hải quân Mỹ ở TCC đã không nhận được bất kỳ thông tin liên quan nào về khả năng TCC sẽ bị tấn công. Hạm đội TBD đã bị cướp mất cơ hội chiến đấu, dẫn đến kết cục bi thảm ngày 7/12/1941". Còn Tư lệnh Tác chiến Hải quân Stark giải trình: "Tôi không muốn thông báo thông tin cho Đô đốc Kimmel, bởi như vậy sẽ rất dễ bị tiết lộ bí mật". Vậy thì Tư lệnh Stark sợ tiết lộ bí mật của Nhật hay của Mỹ?

Thêm những nghi vấn

Mặc dù các lãnh đạo cao cấp của Mỹ luôn vòng vo về sự kiện TCC, song những động thái tăng cường và rút quân tại TBD lại tỏ ra rất đáng ngờ. Đầu năm 1941, ¼ lực lượng tác chiến của hạm đội TBD gồm một tàu hàng không mẫu hạm, 3 chiến hạm chủ lực, 4 tàu tuần dương, 17 tàu bảo vệ được điều động sang hạm đội Tây TBD. Ngoài ra, Hải quân Mỹ cũng điều những sĩ quan giỏi nhất trong hạm đội ở TCC và đội thủy binh đến hạm đội Tây TBD. Thêm nữa, dù Đô đốc Kimmel từng nhiều lần trình bày với Tư lệnh tác chiến Hải quân Stark về tầm quan trọng của việc tăng cường sức mạnh cho hạm đội TBD, song chính phủ Mỹ không hề lưu tâm. Trong thư gửi Tư lệnh Stark ngày 22/9/1941, Đô đốc Kimmel viết: “Một hạm đội TBD mạnh sẽ là một sự đe doạ với người Nhật, còn một hạm đội yếu, mỏng sẽ thu hút sự chú ý của Nhật. Trước khi chúng ta có đủ thực lực để chống lại Nhật, chúng ta sẽ thất thủ ở Trân Châu Cảng”.

Sự kiện tưởng đã qua đi, song ngày 5/9/1995, Tổng thống Clinton bất ngờ nhận được một lá thư từ một phụ nữ Mỹ tên là Helen E.Hamman. Trong thư, bà cho biết cha bà là ông Don Smith đã từng kể cho bà một vài bí mật kinh hoàng liên quan đến TCC. Trong Thế chiến II, cha bà là Phó Chủ nhiệm Cục Hậu cần của quân đội Mỹ. Theo đó, trước khi xảy ra sự kiện TCC không lâu, Tổng thống Roosevelt đã khẩn cấp triệu tập cuộc họp bí mật và công bố rằng Chính phủ Mỹ đã dự kiến được Hải quân Nhật sẽ tập kích TCC, do đó có thể dẫn đến nhiều thương vong cho người và của. Cuối cùng, Tổng thống Roosevelt ra lệnh cho những người tham gia cuộc họp bí mật này phải nhanh chóng điều động các nhân viên y tế, thuốc men và các trang thiết bị cấp cứu tập trung tại một bến cảng ở bờ biển miền Tây nước Mỹ. Tổng thống cũng đặc biệt nhấn mạnh tuyệt đối không để lọt thông tin ra ngoài. Tổng thống giải thích: “Chỉ khi nước Mỹ bị tấn công thì những người dân Mỹ đang còn do dự mới đồng ý nhảy vào cuộc chiến…”.

Mặc dù bà Hamman không phải là người có mặt ở TCC và ông Smith cũng đã qua đời năm 1990, song các báo cáo và hồ sơ lưu trữ quốc gia Mỹ trong 2 năm 1941-1942 cho thấy Hội Chữ thập Đỏ Mỹ và lực lượng cứu hộ của Cục Hậu cần quân đội Mỹ từng có những cuộc điều động người và vật chất cấp cứu một cách bất thường 2 tuần trước sự kiện TCC. Cụ thể, Chi nhánh Hội Chữ thập Đỏ Mỹ ở Hawaii đã nhận được thiết bị và thuốc men cấp cứu trị giá 50.000 USD từ Tổng bộ Hội hoặc trong thời gian trên, chi nhánh này có tới 2.534 nhân viên y tế, trong khi chỉ có 1.029 người làm việc thường xuyên ở đây, còn 1.505 người khác là mới được điều động...

Nhà sử học người Mỹ Charles Beard nhận định rằng trước thái độ không quan tâm đến cuộc chiến của người dân Mỹ, Tổng thống Roosevelt đã quyết định phải đưa nước Mỹ vào cuộc chiến trước khi các nước phát xít chinh phục toàn châu Âu, do vậy Tổng thống đã dùng đến “khổ nhục kế” này. Đồng thời để làm giảm tổn thất, ông Roosevelt đã điều 3 mẫu hạm chủ lực ra khỏi TCC và bí mật đưa vật chất và nhân viên y tế đến cứu hộ nhằm khắc phục hậu quả… Tất nhiên, do thiếu chứng cứ, nên “khổ nhục kế” này vẫn còn là bí mật.

Minh Minh (Theo Military Digest)