TIN LIÊN QUAN | |
Vì sao doanh nghiệp Việt khó ra biển lớn? | |
Tiến đến bến bờ phát triển bền vững |
Kỳ vọng tăng trưởng 6,86%
Ở kịch bản thấp, với bối cảnh kinh tế thế giới và thương mại quốc tế suy giảm mạnh và hệ thống tài chính toàn cầu nhiều bất ổn. Kinh tế trong nước với tốc độ tăng đầu tư toàn xã hội là 7%; rủi ro từ nợ công, bội chi ngân sách và hệ thống tài chính ngày một lớn; tiếp tục dựa vào mô hình tăng trưởng kiểu cũ; cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các nước đang phát triển khác đối với những mặt hàng giá trị gia tăng thấp. Với kịch bản này, tăng trưởng kinh tế trung bình giai đoạn này có thể đạt khoảng 6,2%.
Kịch bản cơ sở giả định tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục ổn định ở khoảng 3%. Khi đó, ở Việt Nam, tốc độ tăng đầu tư toàn xã hội là 7%. Hiệu quả đầu tư công được cải thiện; môi trường đầu tư được cải thiện một bước. Mô hình kinh tế phần nào được chuyển đổi nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế dựa vào vốn và lao động giá rẻ; hệ thống tài chính khá ổn định, điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ tương đối linh hoạt. Các hiệp định thương mại được triển khai hiệu quả, giúp đầu tư và xuất khẩu Việt Nam cải thiện hơn. Với kịch bản này, dự báo tăng trưởng kinh tế trung bình giai đoạn 2016 - 2020 sẽ đạt khoảng 6,55%.
Trưởng Ban Phân tích và Dự báo, NCIF, TS. Đặng Đức Anh (bên trái) tham gia Chủ tọa tại Hội thảo Kinh tế Việt Nam trong trung hạn, ngày 18/11, tại Hà Nội. (Nguồn: NCIF) |
Với kịch bản cao, dù ít khả năng xảy ra hơn, nhưng vẫn có cơ hội trở thành hiện thực nếu nền kinh tế đạt được những kỳ vọng như kịch bản cơ sở nhưng tái cơ cấu kinh tế được diễn ra mạnh mẽ hơn, đặc biệt là cải thiện cơ bản về cơ chế quản lý, qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư công. Năng suất lao động đạt được trung bình của các nước ASEAN. Giảm lãi suất cho vay ngắn hạn xuống mức trung bình của các nước đang phát triển. Đẩy mạnh thoái vốn doanh nghiệp nhà nước và sử dụng nguồn thu đầu tư kết cấu hạ tầng. Đồng thời, những rủi ro đối với nền kinh tế như nợ công hay nợ xấu được giải quyết triệt để.
Theo kịch bản này, tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 trung bình sẽ đạt khoảng 6,86%. Nếu điều này xảy ra, nó còn có thể giúp nền kinh tế duy trì được sự phát triển bền vững, tạo tiền đề cho những giai đoạn kế hoạch 5 năm tiếp theo.
Tại Hội thảo khoa học quốc tế Kinh tế Việt Nam trong trung hạn: triển vọng và một số ảnh hưởng của yếu tố môi trường, do NCIF tổ chức, thay mặt nhóm nghiên cứu, TS. Đặng Đức Anh, Trưởng ban Phân tích Dự báo của NCIF cho biết, 3 kịch bản này được xây dựng theo 3 cấp độ tăng trưởng tương ứng, từ thấp, trung bình đến cao. Trong đó, kịch bản tăng trưởng trung bình được dự báo là kịch bản chủ đạo với nhiều khả năng xảy ra nhất.
Theo phân tích của TS. Đức Anh, ở kịch bản này, giả thiết nền tảng xây dựng dựa trên cơ sở dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) với mức tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục ổn định ở mức trung bình 4%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình dự báo cho toàn giai đoạn 2016-2020 có thể đạt mức 6,63%, trong khi lạm phát duy trì ở mức thấp, khoảng 4,8-5%.
Với kịch bản tăng trưởng trung bình, dự báo tốc độ tăng xuất khẩu đạt 10%, trong khi tốc độ tăng nhập khẩu đạt 12,5%, cán cân thương mại vẫn chủ yếu là nhập siêu. Dự báo tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng đạt 6,74%, trong đó tiêu dùng tư nhân tăng tương ứng 6,7%, cơ cấu tiêu dùng tư nhân chiếm tỷ trọng chủ đạo với 91,92%, tiêu dùng Chính phủ chỉ chiếm 7,7%.
Chu kỳ phục hồi mới
Phân tích chung bối cảnh trong nước giai đoạn 2016 - 2020, nhóm chuyên gia của NCIF cho rằng, kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi quan trọng với kỳ vọng đột phá của tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Kỳ vọng giai đoạn 2016-2020, nền kinh tế Việt Nam sẽ thoát khỏi giai đoạn suy giảm và bắt đầu vào chu kỳ phục hồi mới. (Nguồn: NCIF) |
Giai đoạn 2016-2020, nền kinh tế Việt Nam sẽ thoát khỏi giai đoạn suy giảm và bắt đầu vào chu kỳ phục hồi mới. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế được kỳ vọng hồi phục mạnh trong giai đoạn tới với sự hỗ trợ từ các hiệp định thương mại, lực đẩy từ các doanh nghiệp FDI và nhu cầu bên ngoài, cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, cải cách về thể chế và môi trường kinh doanh.
Khu vực công nghiệp – xây dựng sẽ có tăng trưởng mạnh mẽ, là động lực chính cho sự phục hồi toàn nền kinh tế.
Khu vực dịch vụ sẽ duy trì ở mức tăng trưởng vừa phải, có nhiều triển vọng và nhiều tác động tích cực đến việc mở rộng các hoạt động dịch vụ do các Hiệp định thương mại tự do mang lại. Trong khi đó, tăng trưởng của khu vực nông nghiệp có thể tăng trưởng chậm do tác động của biến đổi khí hậu cũng như chưa có những giải pháp đột phá giúp chuyển dịch cơ cấu hiệu quả. Trong dài hạn, khu vực này vẫn còn đối mặt với những thách thức do hạn chế về năng suất và khả năng cạnh tranh, chưa phát huy được lợi thế so sánh và đối diện với những yêu cầu ngày càng khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, hàng rào kỹ thuật của thị trường.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, đi cùng với cơ hội là thách thức lớn đặt ra đối với ngành khi có sự gia tăng áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp của các nước trong khu vực. Hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ ngày càng gia tăng từ các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, logistic đến nông nghiệp... Tương lai sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả tái cấu trúc và thay đổi mô hình sản xuất gắn với công nghệ hiện đại, chi phí thấp để nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm, năng cao năng lực cạnh tranh… của các ngành nghề, doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, các thách thức phi truyền thống đang nổi lên mạnh mẽ. Trong chỉ số đánh giá mức độ tổn thương do tác đôngh của biến đổi khí hậu (CCVI) trong 30 năm tới, thông qua 42 yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường, Việt Nam xếp hạng thứ 23/193 quốc gia, và là một trong 30 nước chịu “rủi ro rất cao”. Dự báo, trung bình giai đoạn 2016-2020, thiên tai và ô nhiễn môi trường có khả năng kéo giảm GDP khoảng 0,6%/năm.
Mặc dù có nhiều lạc quan vào tăng trưởng của nền kinh tế trong trung và dài hạn, nhưng một số chuyên gia cho rằng, các vấn đề rủi ro nợ xấu, nợ công và khả năng hội nhập của nền kinh tế, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn là thách thức. Một số ngành kinh tế đang có nhiều dấu hiệu kém cạnh tranh, yếu năng lực hội nhập và không hấp thụ được các lợi thế tự do hóa kinh tế, trong đó có nông nghiệp - một trong những ngành chủ lực của đất nước hiện nay.
Việt Nam: Sự lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư Đó là kết quả mà một nghiên cứu gần đây do ngân hàng Standard Chartered công bố. |
Phát triển kinh tế phải gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường Sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam trong 20 năm qua, bên cạnh những thành tựu to lớn, đã tạo ra những ... |