📞

Bảo đảm an ninh năng lượng, thúc đẩy quyền con người

ThS. Loan Hoàng Hải 10:47 | 12/12/2025
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, an ninh năng lượng đã trở thành một trong những vấn đề chiến lược hàng đầu. Không chỉ là vấn đề kinh tế - kĩ thuật, an ninh năng lượng còn gắn bó mật thiết với quyền con người. Việc bảo đảm nguồn năng lượng ổn định, sạch và bền vững là điều kiện tiên quyết để bảo đảm những quyền cơ bản của con người.
Trang trại điện gió, điện mặt trời tại Việt Nam. (Nguồn: VUSTA)

Tác động của an ninh năng lượng đến quyền con người

Bảo đảm an ninh năng lượng, tránh đứt gãy về nguồn cung năng lượng là điều đặc biệt quan trọng nhằm ngăn chặn những tác động dây chuyền đến đời sống xã hội. Ở Việt Nam, quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong nhiều thập niên qua đã cho thấy, năng lượng vừa là động lực, vừa là nền tảng cho việc thực thi các quyền con người, gồm quyền được sống, quyền được giáo dục, quyền được làm việc và quyền được có cuộc sống an toàn.

Quyền được sống: Năng lượng là điều kiện tiên quyết để duy trì các dịch vụ thiết yếu như y tế, nước sạch, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc và sinh hoạt hằng ngày. Tại Việt Nam, đến năm 2023, 100% số xã trên cả nước đã có điện, số hộ dân nông thôn được sử dụng điện đạt 99,6%. Điều này có ý nghĩa hầu hết người dân Việt Nam đều được bảo đảm điều kiện sống cơ bản về sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, được bảo vệ khỏi thiên tai, sự cố.

Tuy nhiên, vẫn còn những khu vực miền núi, hải đảo gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn điện ổn định, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng bảo vệ sức khỏe và tính mạng của người dân. Hơn nữa, vào mùa nắng nóng, nhiều nơi bị quá tải hệ thống, dẫn đến mất điện cục bộ, ảnh hưởng đến hàng triệu hộ dân, một số bệnh viện tuyến tỉnh buộc phải vận hành máy phát điện dự phòng với chi phí cao. Thiếu hụt năng lượng có thể trực tiếp đe dọa đến con người, đặc biệt đối với các nhóm dễ bị tổn thương như người già, trẻ em, bệnh nhân nặng.

Thực tế là Việt Nam đang tiêu thụ điện theo cách không bền vững, thể hiện qua hệ số đàn hồi điện luôn ở mức cao. Hệ số đàn hồi điện, một thuật ngữ kĩ thuật nhưng lại mang ý nghĩa chiến lược, là tỷ lệ giữa mức tăng trưởng tiêu thụ điện năng so với tăng trưởng GDP trong cùng một giai đoạn. Ở Việt Nam, hệ số này đã dao động quanh mức hơn 1 trong suốt hai thập kỷ qua, có nghĩa là khi GDP tăng 1%, thì tiêu thụ điện tăng hơn 1%. Nước ta đang tiêu thụ ngày càng nhiều điện để đổi lấy một đơn vị giá trị gia tăng của nền kinh tế. Đây là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế vẫn phát triển theo chiều rộng, dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ và năng lượng giá thấp.

Quyền được giáo dục: Năng lượng, đặc biệt là điện năng, có vai trò quyết định trong việc bảo đảm điều kiện học tập của con người. Từ chiếu sáng, thiết bị giảng dạy, đến kết nối Internet… đều phụ thuộc vào nguồn cung năng lượng ổn định. Chi phí năng lượng tăng cao cũng gây áp lực đối với các cơ sở giáo dục, đặc biệt là trường dân lập, tư thục, phải tự cân đối tài chính. Tại một số huyện miền núi phía Bắc hiện nay, vẫn còn những điểm trường chưa được kết nối điện ổn định, học sinh phải học trong điều kiện thiếu sáng hoặc sử dụng đèn dầu, dẫn đến chất lượng học tập không được bảo đảm, mà còn làm gia tăng sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền.

Quyền được làm việc: Năng lượng là động lực không thể thiếu của sản xuất và kinh doanh. Từ các ngành công nghiệp đến các lĩnh vực dịch vụ, công nghệ thông tin đều cần nguồn cung năng lượng ổn định. Việc thiếu hụt năng lượng ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng xuất kinh doanh khiến các doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất, người lao động có nguy cơ mất việc làm hoặc giảm thu nhập. Khi quyền được làm việc bị ảnh hưởng sẽ kéo theo mức sống phù hợp, an sinh xã hội, đến bình đẳng trong cơ hội phát triển nghề nghiệp cũng bị ảnh hưởng. Điều này càng trở nên nghiêm trọng khi Việt Nam đang hướng đến mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2045, đồng nghĩa với nhu cầu năng lượng sẽ tiếp tục tăng nhanh.

Quyền được có cuộc sống an toàn: An ninh năng lượng có tác động sâu rộng đến môi trường, khí hậu và sức khỏe cộng đồng, từ đó ảnh hưởng đến quyền được sống trong môi trường trong lành, quyền được bảo vệ sức khỏe và an toàn cá nhân. Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn điện than, chiếm khoảng 31% tổng công suất phát điện vào năm 2022 (theo Qui hoạch Điện VIII). Việc sử dụng năng lượng hóa thạch với cường độ cao dẫn đến phát thải khí nhà kính, gây ô nhiễm không khí, nước và đất, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.

Theo TS. Angela Pratt, Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam, mỗi năm Việt Nam có ít nhất 70.000 người tử vong vì ô nhiễm không khí từ các bệnh đường hô hấp cấp, sự trầm trọng thêm các bệnh nền như hen suyễn và các tình trạng khác như đột quỵ, bệnh tim và ung thư phổi.

Như vậy, việc bảo đảm an ninh năng lượng không thể chỉ dừng lại ở số lượng, mà còn phải tính đến yếu tố bền vững, thân thiện môi trường. Nếu Việt Nam không có chiến lược chuyển dịch năng lượng công bằng, nguy cơ mất an toàn môi trường sẽ trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của hàng triệu người dân, đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.

Hội thảo 'Thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân trong quá trình chuyển dịch năng lượng quốc gia' ngày 3/12, tại Hà Nội.

Bảo đảm an ninh năng lượng - bảo đảm quyền con người

Ngoài ra an ninh năng lượng còn tác động đến quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia vào đời sống chính trị - xã hội và quyền bình đẳng. Sự thiếu hụt năng lượng ở các vùng nông thôn, miền núi khiến người dân khó tiếp cận Internet, qua đó bị hạn chế quyền tiếp cận thông tin và dịch vụ công trực tuyến. Tương tự, khi chi phí năng lượng tăng cao, các hộ nghèo phải cắt giảm chi tiêu cho giáo dục, y tế, làm gia tăng bất bình đẳng xã hội. Do đó, bảo đảm an ninh năng lượng không chỉ là nhiệm vụ về kinh tế - kĩ thuật, mà còn là một yêu cầu đạo lí và pháp lí để hiện thực hóa quyền con người trong thực tiễn.

Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại Hội nghị COP26, việc gắn kết giữa an ninh năng lượng và quyền con người càng trở nên cấp thiết. Các chính sách năng lượng không thể chỉ tập trung vào mục tiêu cung ứng, mà phải đặt trong mối quan hệ hữu cơ với bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo đảm công bằng xã hội và thích ứng với biến đổi khí hậu. Điều này đồng nghĩa rằng, quyền con người sẽ là thước đo cuối cùng cho tính hiệu quả và bền vững của các chính sách năng lượng. Để làm được điều đó, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, vừa góp phần bảo đảm nguồn cung ổn định lâu dài, vừa giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người. Theo Qui hoạch Điện VIII được Chính phủ phê duyệt năm 2023, Việt Nam đặt mục tiêu nâng tỉ trọng năng lượng tái tạo (gió, mặt trời, sinh khối, thủy điện nhỏ) lên khoảng 30% vào năm 2030 và 47% vào năm 2050. Điều này không chỉ giúp giảm phụ thuộc vào than đá và khí đốt, mà còn trực tiếp bảo vệ môi trường.

Thực tế cho thấy, các dự án điện gió tại Ninh Thuận, Bình Thuận, hay điện mặt trời tại Tây Ninh, An Giang đã tạo ra hàng chục nghìn việc làm, đồng thời cung cấp nguồn điện sạch cho hàng triệu hộ dân. Việc tiếp tục mở rộng các dự án năng lượng tái tạo ở vùng có tiềm năng lớn, đặc biệt là miền Trung và Tây Nguyên, sẽ giúp tăng cường khả năng tiếp cận điện năng cho người dân ở những khu vực khó khăn, qua đó thúc đẩy quyền được hưởng dịch vụ cơ bản một cách công bằng.

Hai là, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng. Một trong những thách thức lớn của Việt Nam là cường độ năng lượng trong sản xuất còn cao, tức là tiêu tốn nhiều năng lượng cho cùng một đơn vị GDP. Do đó, cần đẩy mạnh các chương trình tiết kiệm năng lượng, áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại, và khuyến khích doanh nghiệp đổi mới qui trình để giảm tiêu hao. Đồng thời, khuyến khích hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo sử dụng thiết bị tiết kiệm điện, áp dụng công nghệ chiếu sáng LED, hoặc sử dụng điện mặt trời áp mái. Một chính sách hiệu quả trong lĩnh vực này sẽ giúp hiện thực hóa quyền con người thông qua việc bảo đảm khả năng tiếp cận năng lượng bền vững với chi phí hợp lí.

Ba là, cải cách chính sách và tăng cường quản trị năng lượng. Việt Nam cần xây dựng hệ thống chính sách minh bạch, ổn định và có tính dự báo cao trong lĩnh vực năng lượng, nhằm thu hút đầu tư, đồng thời bảo đảm quyền lợi của người dân trong quá trình chuyển dịch năng lượng. Các qui định về giá điện, trợ giá cho hộ nghèo, chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo cần được thiết kế theo hướng công bằng, ưu tiên nhóm dễ bị tổn thương. Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực quản lí của cơ quan chức năng, từ khâu qui hoạch, cấp phép, giám sát đến vận hành, nhằm tránh tình trạng mất cân đối cung cầu, gây ảnh hưởng đến đời sống người dân.

Bốn là, bảo đảm công bằng xã hội trong tiếp cận năng lượng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của quyền con người là mọi người đều có quyền tiếp cận bình đẳng đối với các dịch vụ thiết yếu. Do đó, chính sách năng lượng phải hướng tới việc thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, hải đảo. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư lưới điện cho vùng sâu, vùng xa, đồng thời khuyến khích các mô hình năng lượng phân tán như điện mặt trời hộ gia đình, điện gió nhỏ lẻ để bảo đảm mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận năng lượng sạch.

Bên cạnh đó, cần xây dựng các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo trong thanh toán chi phí năng lượng, ví dụ như trợ giá điện bậc thang, hỗ trợ lắp đặt thiết bị tiết kiệm năng lượng. Những chính sách này sẽ góp phần thực thi nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển, đồng thời hiện thực hóa quyền con người trong lĩnh vực năng lượng.

Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế và huy động nguồn lực. Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp bách về chuyển dịch năng lượng công bằng, vừa bảo đảm tăng trưởng, vừa giảm phát thải. Điều này đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn. Theo Ngân hàng thế giới, Việt Nam cần khoảng 14 tỷ USD/năm để thực hiện lộ trình phát triển năng lượng sạch đến năm 2030. Do đó, hợp tác quốc tế là giải pháp không thể thiếu, góp phần phát triển năng lượng tái tạo và nâng cao năng lực quản trị sẽ giúp Việt Nam tiếp cận nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lí. Đồng thời, hợp tác quốc tế cũng mở ra cơ hội để Việt Nam khẳng định cam kết về quyền con người thông qua các chính sách năng lượng gắn với công bằng, bền vững.

An ninh năng lượng không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước và doanh nghiệp, mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Người dân cần được nâng cao nhận thức về vai trò của năng lượng đối với quyền con người, từ đó chủ động tham gia vào các chương trình tiết kiệm điện, sử dụng năng lượng tái tạo và giám sát quá trình thực hiện chính sách. Việc tăng cường minh bạch thông tin, công khai các dự án năng lượng, cũng như tạo điều kiện để người dân tham gia ý kiến trong quá trình qui hoạch sẽ góp phần nâng cao tính dân chủ, qua đó củng cố niềm tin xã hội. Đây là yếu tố quan trọng để bảo đảm các chính sách năng lượng không chỉ hiệu quả về mặt kinh tế - kỹ thuật, mà còn mang tính nhân văn, phục vụ con người và vì con người.

Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Phát triển năng lượng phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện an sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và linh hoạt trong thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính”.