Tiến sĩ Patrick M. Cronin. Nguồn:CNAS |
Xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Patrick M. Cronin* trên The Diplomat về vấn đề này.
Sự quyết đoán đang tăng lên của Trung Quốc đang tạo ra những bất ổn ngày càng tăng tại vùng biển châu Á. Mặc dù tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có sự suy giảm nhưng Bắc Kinh đang đầu tư lớn để tăng cường năng lực quân sự và bán quân sự để gia tăng ảnh hưởng ở Biển Đông, biển Hoa Đông cũng như các vùng biển xa hơn. Quan trọng hơn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang ngày càng sẵn sàng mạo hiểm mất danh tiếng trong ngắn hạn để đạt được tối đa những lợi ích dài hạn trong các tuyên bố chủ quyền.
Các thách thức
Hành vi quyết đoán của Trung Quốc được thể hiện bằng nhiều cách thức. Họ khai thác các khuôn khổ ngoại giao và pháp lý chưa rõ ràng và yếu ớt, từ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) tới các thể chế mà trung tâm là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Nước này che giấu sức mạnh “cứng” đằng sau những hình ảnh có vẻ “mềm mại” như các con tàu hải cảnh sơn trắng hay các lực lượng thực thi pháp luật. Tuy vậy, những con tàu bảo vệ bờ biển của quốc gia này thường có tải trọng lớn và được trang bị vũ khí với số lượng lớn hơn bất cứ quốc gia nào trong khu vực. Họ cũng kết hợp chính sách “củ cà rốt” thương mại, tài chính với “cây gậy” là cuộc chiến tranh thông tin đi cùng với việc tăng cường triển khai quân đội và các hoạt động quân sự.
Rất khó để xác định các mục tiêu đích thực của Trung Quốc. Tuy nhiên, có nhiều lý do để thận trọng. Những người coi sự quyết đoán của Trung Quốc nằm trong một đại chiến lược dài hạn và được tính toán kỹ cũng nên bình tĩnh xem xét đến những thách thực nội bộ rất lớn của Trung Quốc và các lĩnh vực nước này chọn lựa để hợp tác trên bình diện quốc tế như thương mại và biến đổi khí hậu. Đồng thời, những người tin tưởng vào những lời hùng biện có tính xoa dịu, dù là của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hay của Chủ tịch Tập Cận Bình thì cũng nên tỉnh táo trước những hành động trái ngược nhau ít mang tính hợp tác của nước này. Mặc dù Chủ tịch Trung Quốc tuyên bố không quân sự hóa Biển Đông thì cách cư xử của nước này là sự dự báo tương lai rõ ràng hơn là những lời trấn an. Ví dụ, sau khi xây dựng ba đường băng mới trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông trong hai năm qua, việc Trung Quốc triển khai tên lửa đất đối không (SAM) và máy bay chiến đấu trên đảo Phú Lâm và việc lắp đặt một radar tần số cao trên đá Châu Viên dường như là chỉ báo rõ ràng về những gì sẽ diễn ra tiếp theo.
Những hành động riêng rẽ của Trung Quốc có thể được xem như là những thách thức riêng biệt đối với các quốc gia láng giềng. Nhưng về tổng thể đó là những thách thức đối với trật tự khu vực hậu Chiến tranh Thế giới thứ Hai mà nhiều quốc gia đã thiết lập nên, trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản và nhiều bên liên quan khác. Thông qua chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập (còn gọi là A2/AD), Trung Quốc đang tìm cách hạn chế vị thế quân sự vượt trội của Mỹ ở khu vực là cơ sở của trật tự khu vực này. Tất nhiên, thay đổi và thích nghi là cần thiết nhưng điều đó không nên có được bằng việc phá bỏ các chuẩn mực và luật lệ đã được chấp nhận. Điều đáng lo ngại hơn việc Trung Quốc củng cố năng lực quân sự là việc họ tấn công vào sự thống trị của luật pháp và nguyên tắc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.
Việc Trung Quốc thiếu thiện chí trong việc tham gia cùng Philippines tìm kiếm sự phân xử của trọng tài quốc tế là phương cách để xác định rõ những điểm cơ bản của luật theo quy định của UNCLOS, cùng với việc Bắc Kinh trì hoãn xây dựng một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) là những điềm xấu cho toàn bộ khu vực. Các quốc gia có yêu sách khác không nên bị làm ngơ vì họ là nước có quy mô nhỏ và không một quốc gia nào được phép quyết định rằng các cường quốc biển trên thế giới không được tham gia bảo vệ một số tuyến hàng hải quốc tế quan trọng nhất của thế giới.
Tóm lại, chúng ta không thể biết được vận mệnh tương lai của Trung Quốc hay các mục tiêu mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc đưa ra để đạt được “Giấc mơ Trung Hoa”. Nhưng bất kể mục tiêu chính xác của Bắc Kinh là gì, những hậu quả của việc tiếp tục đi theo con đường hiện nay nên được làm rõ ràng: Trung Quốc dường như đang muốn có một khu vực ảnh hưởng lớn hơn để họ có thể xác định cho ai là người được sử dụng không gian hàng hải và hàng không chung của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong bối cảnh các hành động của nước này ở Biển Đông và biển Hoa Đông thì việc dựa vào lòng nhân từ của các nhà lãnh đạo tương lai của Trung Quốc là một chiến lược mang tính rủi ro cao. Bởi thế, chính sách cấp bách là tìm cách bảo vệ các lợi ích quốc gia cũng như trật tự khu vực trước việcTrung Quốc đang gia tăng thách thức đối với cả hai.
Đáp trả
Chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối phó với một Trung Quốc ngày càng có năng lực và quyết đoán hơn, tiếp tục phát triển cùng chính Trung Quốc. Tuy nhiên, các quan điểm chính thức của Hoa Kỳ đều xuất phát từ chính sách của chính quyền Obama tái cân bằng toàn diện về khu vực châu Á - Thái Bình Dương - một chính sách bao gồm các công cụ về sức mạnh an ninh, ngoại giao và kinh tế. Những người chỉ trích chính sách xoay trục sang châu Á viện ra một số lý do. Một số cho rằng Mỹ chuyển hướng ưu tiên sang châu Á đã bỏ qua mối đe dọa an ninh mới đối với châu Âu và Trung Đông. Trong khi lo ngại đó đã được đáp ứng một phần với những gia tăng các hoạt động quân sự ở những nơi như Syria, Iraq, Libya và điều hai lữ đoàn quân sự sang châu Âu thì điều đó chỉ làm trầm trọng thêm những nghi ngờ của một số khác về sự không nhất quán và sự thực hiện nửa vời chiến lược tái cân bằng. Cuối cùng, một số nhà phê bình cho rằng chính quyền Mỹ đang quan tâm đến lợi ích và ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhưng vẫn chưa đạt được một kết quả nào rõ ràng và chưa có sự đáp trả hiệu quả đối với chiến thuật tiệm tiến, cắt lát salami hay bóc vỏ bắp cải của Trung Quốc tại vùng biển châu Á.
Trung Quốc xây đảo nhân tạo trái phép trên Biển Đông. Nguồn:CSIS |
Rõ ràng Hoa Kỳ cần có một chiến lược, không chỉ đơn thuần là một bộ sưu tập các chính sách đối phó. Chiến lược đó cần một tiêu điểm có tính lâu dài để giữ nó đi đúng hướng cũng như trấn an các đồng minh và bạn bè về quyết tâm của Mỹ làm một cường quốc có ảnh hưởng sống còn và lâu dài ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, để có sức thuyết phục, Hoa Kỳ phải đưa ra chiến lược của mình dựa trên sức mạnh toàn diện và can dự hết mình. Trên hết, Hoa Kỳ phải tìm cách làm việc với tất cả các quốc gia để thiết lập một khu vực bao gồm tất cả các bên, mở cửa cho thương mại tự do và dựa trên pháp luật.
Thương mại, kinh doanh và phát triển là nền tảng cho các lợi ích lâu dài trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong năm bầu cử Mỹ thấp thoáng những biểu hiện của chủ nghĩa biệt lập từ cánh tả hay cánh hữu, không có gì đảm bảo Mỹ sẽ tiếp tục là một cường quốc.
Tôi vẫn tin tưởng rằng vị tổng thống tiếp theo sẽ tiếp tục chính sách tái cân bằng của Tổng thống Barack Obama, không chỉ thể hiện trong các sáng kiến kinh tế và thương mại như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tuy nhiên, chính quyền tiếp theo cần kết nối TPP với các mối quan hệ thương mại, đầu tư, kinh doanh, và phát triển khác trong khu vực. Thực tế, việc mở rộng hợp tác kinh tế với các nền kinh tế năng động nhất của thế giới cũng là sự quan tâm của người dân thường Mỹ.
Hoạt động ngoại giao Mỹ một mình cũng không đủ khả năng để dẫn đường. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ phải tìm kiếm sự ủng hộ hiệu quả chống lại việc vi phạm các quy chuẩn và luật lệ của khu vực. Dù có những thiếu sót trong chính sách tái cân bằng của Obama nhưng chính quyền của ông đã tích cực thể hiện sự cam kết của Mỹ trong khu vực. Hội nghị thượng đỉnh giữa các nhà lãnh đạo Mỹ và ASEAN tại Sunnylands vào giữa tháng Hai đã nâng cao mức độ can dự về ngoại giao, được cho là đã bắt đầu với việc Mỹ gia nhập Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) vào tháng 7/2009 và tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (AES) thường niên. Người kế nhiệm của ông Obama sẽ là khôn ngoan nếu duy trì mức độ tham gia tích cực đó trong khu vực, mặc dù người này có thể tìm cách cải thiện hơn nữa bằng cách tăng cường quan hệ đối ngoại để đạt được những kết quả có ý nghĩa. Thu hút sự can dự của Trung Quốc là điều cần thiết đối với Hoa Kỳ nhưng cần được tính toán dựa trên sự tự nguyện của Bắc Kinh trong việc đàm phán các thỏa thuận hiệu quả và công bằng.
Khi tìm kiếm các tác động ngoại giao, khu vực này cần phải tiến xa hơn các tuyên bố của các cuộc họp quy mô lớn để có được các phản ứng nhanh và tập trung đối với các hành vi xấu. Ví dụ, ngay cả trong khi ASEAN muốn đạt được COC với Trung Quốc, một liên minh của các quốc gia thiện chí trong toàn khu vực nên tự nguyện tuyên bố ủng hộ mạnh mẽ một COC được nhất trí và có tính ràng buộc. Tương tự như vậy, sau phán quyết của Tòa án trọng tài thường trực quốc tế (PCA) ở La Hay (Hà Lan) sẽ được đưa ra vào khoảng tháng 5 tới, các chính phủ cần sẵn sàng để nhanh chóng tập hợp quanh phán quyết đó và xem đó như là phương thức được chọn lựa để giải quyết tranh chấp một cách thân thiện và công bằng cho tất cả.
Trọng tài là một trong những phương tiện để giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình theo UNCLOS. Nhưng các phương pháp này đòi hỏi có hành động hơn nữa nếu muốn đối phó thành công với những cử chỉ sai trái, những hành động và tuyên bố tráipháp luật. Ví dụ, các nhà lãnh đạo cần ủng hộ công việc khó khăn của năm trọng tài chuyên nghiệp, những người đang xử lý một lượng lớn thông tin do Chính phủ Philippines cung cấp. Nếu các trọng tài xác định, theo UNCLOS không có bằng chứng pháp lý để ủng hộ yêu sách dựa trên quyền lịch sử đối với ranh giới ngụ ý của cái gọi là đường lưỡi bò của Trung Quốc, thì phán quyết này xứng đáng trở thành một nền tảng mới cho khu vực tiến về phía trước.
Đồng thời, hành vi xấu như việc quân sự hóa các hòn đảo ở Biển Đông cần phải trả giá. Có thể hình dung các hành động hung hăng của Trung Quốc có thể được cản trở bằng sự hợp tác quốc tế nhằm ngăn chặn các dòng chảy công nghệ cao, chẳng hạn những sản phẩm máy tính lượng tử, tràn đến Trung Quốc. Nhưng ngoài các biện pháp pháp lý và các biện pháp trừng phạt có mục tiêu, cách đáp trả tốt nhất vẫn là xây dựng một hệ thống khu vực dựa trên lợi ích và giá trị của các nước có cùng ý tưởng chống lại những hành động đơn phương làm thay đổi nguyên trạng thông qua ép buộc và sức mạnh.
Nói một cách khác, những trụ cột kinh tế và ngoại giao đó là các biện pháp cần thiết, có thể chưa đủ, để củng cố trật tự khu vực. Hoa Kỳ cũng cần đầu tư thích đáng vào việc tự phòng vệ và hợp tác an ninh. Washington không được cho phép mong muốn hợp tác và thiết lập đối tác chiến lược với các quốc gia láng giềng lớn ảnh hưởng đến sự tập trung cao độ và liên tục vào việc xây dựng năng lực quốc phòng. Tất cả các nước xứng đáng có khả năng tự vệ tối thiểu và các nước lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ, và những nước khác có thể và nên quan tâm hỗ trợ.
Duy trì sự hiện diện có nghĩa là đầu tư vào đủ số lượng và năng lực và giữ cho chúng được triển khai ra tuyến trước và thường xuyên tiến hành các hoạt động, bao gồm cả việc bay và đi qua trong phạm vi luật quốc tế cho phép. Nó cũng có nghĩa là đầu tư vào cái gọi là chiến lược "bù đắp thứ ba", chủ yếu dựa vào khai thác các công nghệ mới và áp dụng loại hình hoạt động mới, để duy trì việc triển khai sức mạnh khi đối mặt với các mối đe dọa A2/AD ngày càng gia tăng.
Một cục diện an ninh hiệu quả cũng đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa các liên minh của Mỹ. Hướng dẫn quốc phòng Hoa Kỳ - Nhật Bản 2015 đưa liên minh này lên tầm cao hơn, bao gồm cả hợp tác trong các lĩnh vực không gian mạng và không gian vũ trụ. Tương tự như vậy, liên minh Mỹ - Australia chưa bao giờ mạnh mẽ hơn. Việc gửi hải quân và không quân để huấn luyện luân phiên thường xuyên tại Australia có thể là một hình mẫu cho liên minh Mỹ - Philippines học tập, dù ở quy mô nhỏ hơn, đặc biệt trong bối cảnh Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã ra phán quyết về tính hợp hiến của Hiệp định tăng cường hợp tác quốc phòng.
Xây dựng năng lực hợp tác là rất quan trọng đối với hầu hết các nước trong khu vực, trong đó có Philippines, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và những nước khác. Mối quan hệ chiến lược của Việt Nam là vô giá đối với Hoa Kỳ và Washington hoan nghênh những đóng góp của Việt Nam vào việc duy trì hòa bình và ổn định khu vực (ví dụ, bao gồm việc Hà Nội ủng hộ các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ mới đây ở ngoài khơi đảo Tri Tôn, hòn đảo mà gần đó Trung Quốc đã triển khai dàn khoan nước sâu). Nếu tên lửa SAM ở quần đảo Hoàng Sa và radar ở quần đảo Trường Sa được dự định là một cách đáp trả đối với các biện pháp đề cao luật pháp quốc tế, thì chắc chắn các biện pháp nêu trên sẽ chỉ tạo ra một môi trường an ninh khu vực mà Bắc Kinh sẽ phải e ngại.
Cuối cùng, cục diện an ninh mạnh hơn có thể đạt được bằng hợp tác hàng hải rộng lớn hơn trong khu vực. Đó có thể là một hình thức củng cố một mạng lưới sức mạnh ở châu Á với các cuộc tập trận quốc phòng và an ninh liên châu Á, trao đổi, đào tạo, tuần tra chung hay hợp tác trong lĩnh vực công nghệ và mua sắm. Ví dụ, chúng ta có thể xây dựng các trung tâm giống như Trung tâm phức hợp thông tin của Singapore đã thành công và với nhiều bên tham gia, nhằm chia sẻ thông tin minh bạch, kịp thời và cập nhật tình hình hoạt động đến tất cả các thành viên. Tất cả các nước đều hưởng lợi từ các thông tin thực để phản ứng kịp thời với khủng hoảng nhân đạo hay duy trì sự thực thi pháp luật.
Thông qua tất cả các bước có tính hợp tác và bắt buộc phải trả giá đó, Hoa Kỳ có thể theo đuổi việc dần dần tăng cường một hệ thống có sự tham gia rộng rãi và dựa trên luật lệ trong khi vẫn xây dựng năng lực để có thể giúp ngăn chặn và làm nản chí các hành động phiêu lưu, phá vỡ luật lệ, thậm chí ở những khu vực biển chưa “yên ả” ở châu Á.
* Tiến sĩ Patrick M. Cronin là Cố vấn cao cấp, Giám đốc cao cấp Chương trình An ninh châu Á - Thái Bình Dương thuộc Trung tâm An ninh Hoa Kỳ mới (CNAS). Bài viết được trình bày tạo Hội thảo về Hợp tác an ninh biển ở Biển Đông và biển Hoa Đông diễn ra ngày 26/2/2016 tại Đại học De La Salle, Manila, Philippines.