Nằm ở vị trí địa chiến lược, Việt Nam được nhiều nước quan tâm. Với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, Việt Nam tìm cách của mình, chủ động thích ứng, hóa giải thách thức để tồn tại và phát triển. Bên cạnh cơ hội, chúng ta cũng chịu những hậu quả. Đó là phải tiến hành kháng chiến giành và giữ độc lập. Trong thời bình, đó là sự “va đập” từ chính sách, chiến lược ngoại giao của các nước lớn.
Trước hết cần rõ ý đồ, chiến lược, chính sách của các nước lớn, tìm trong đó những điểm có thể khai thác, tận dụng.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển là nền tảng để Việt Nam thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước. |
Tư duy “Tổng bằng không” và “Win-Win”, đối lập và thống nhất
Sau thời kỳ chinh phục, thôn tính của các đế chế là chính sách “ngoại giao pháo hạm” (Gunboat diplomacy). Các cường quốc sử dụng chiến hạm bao vây, đe dọa chiến tranh, nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách đối ngoại, buộc các nước yếu hơn phải nhượng bộ thương mại, chủ quyền, lãnh thổ, chấp nhận trở thành thuộc địa.
Cùng với sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, luật pháp quốc tế và cục diện chính trị, an ninh, nguyên tắc “không đe dọa sử dụng vũ lực” được đưa vào Hiến chương Liên hợp quốc. Các nước lớn chuyển sang áp dụng nguyên lý “Tổng bằng không” của lý thuyết trò chơi vào tranh giành chủ quyền, lợi ích quốc gia trong quan hệ song phương. Theo đó, lợi ích giành được của một bên tăng lên thì bên kia giảm đi tương ứng.
Thực chất “Tổng bằng không” là tư duy của nước lớn, cưỡng bức, ép buộc các nước nhỏ chấp nhận bất lợi, nhượng bộ lợi ích quốc gia, chủ quyền, lãnh thổ. Nhưng cách làm được che đậy kỹ càng, phát huy ưu thế kinh tế, quân sự (cả thủ đoạn “ngoại giao pháo hạm”), kết hợp “cây gậy với củ cà rốt”, nhằm đạt mục tiêu cao nhất của chính sách đối ngoại, chính trị.
Chính sách “Tổng bằng không” được áp dụng trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Bằng tuyên bố “đường chín đoạn”, “thuyết tứ sa”, Trung Quốc yêu sách chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông, bao gồm lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, Philippines, Malaysia…
Hậu thuẫn cho chính sách đó là hoạt động quân sự hóa, chiếm đóng, cải tạo các đảo, “đá”, gia tăng hiện diện quân sự và sự tràn ngập hàng ngàn tàu cá, trong đó có nhiều tàu “dân quân biển”, tàu quân sự trá hình.
Trung Quốc (một số nước lớn khác) đề ra chính sách “Win-Win” (cùng thắng). “Win-Win” là sự vận dụng nguyên tắc vàng của nghệ thuật đàm phán kinh doanh vào quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao… nhằm thuyết phục, lôi kéo các nước khác tham gia liên kết, các dự án hợp tác quy mô khu vực, toàn cầu do nước lớn dẫn dắt. Các nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng Sáng kiến Vành đai và Con đường (BIR) là một điển hình của chính sách “Win-Win”.
“Win-Win” nghe hấp dẫn, nhưng thực tế không như mơ. Nó chỉ thực sự hiệu quả khi 2 bên không có mâu thuẫn đối kháng về lợi ích cơ bản; không quá chênh lệch về vị thế, sức mạnh và cùng chia sẻ nỗ lực tìm kiếm, tuân thủ các cam kết, cơ chế chung, luật pháp quốc tế.
Khi không hội đủ các yếu tố đó, nhất là yếu tố thứ nhất thì “Win-Win” thực chất là món hàng bán kèm có điều kiện. Ẩn chứa đằng sau dự án đầu tư, hợp tác, cho vay là “bẫy nợ”, là an ninh, chủ quyền. Phương Tây thường nói “Miếng pho-mát chỉ có trong bẫy chuột”! Tuy nghi ngại, nhưng vì khó khăn, phụ thuộc, một số nước nhỏ, nước đang phát triển vẫn chấp nhận, đánh đổi an ninh, chủ quyền vì lợi ích kinh tế trước mắt.
Giữa chính sách “Tổng bằng không” và “Win-Win” trái ngược nhau về bề ngoài, biện pháp nhưng mục đích cơ bản như nhau. Nước lớn áp đặt chính sách “Tổng bằng không” với nước yếu thế hơn, nhưng lại phản đối hành động tương tự của các nước lớn khác đối với mình.
Khi cuộc chiến nhiều mặt giữa Mỹ và Trung Quốc lên cao, trong đó có hành động FONOP của Mỹ và đồng minh ở Biển Đông, thì Trung Quốc lại kêu gọi hợp tác, tuyên bố hợp tác Mỹ - Trung là biện pháp duy nhất.
Hiểu ý đồ, mục tiêu, chính sách của các nước lớn mới có thể tìm ra biện pháp khai thác mặt có lợi, hạn chế mặt tiêu cực. Để tạo lợi thế trong cạnh tranh chiến lược với nhau, nước lớn cần tranh thủ, lôi kéo các nước khác. Đó là điểm mà các nước khác có thể khai thác.
Lợi ích tương đồng, con đường của Việt Nam
Giành thắng lợi trong 2 cuộc kháng chiến và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở 2 đầu biên giới, Việt Nam phải nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh để xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, một nội dung quan trọng, mang tính đột phá là phá vỡ bao vây cấm vận của Mỹ và phương Tây, bình thường hóa quan hệ với các nước từng là đối thủ.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển là nền tảng để Việt Nam thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng đó. Cây cầu bắc qua “hố sâu ngăn cách” là lợi ích chung, sự hài hòa lợi ích của các bên. Sự hài hòa giữa lợi ích quốc gia, dân tộc với lợi ích của đối tác chính là lợi ích tương đồng, lợi ích song trùng.
Giải quyết hậu quả chiến tranh vẫn là chuyện phức tạp trong quan hệ quốc tế. Chiến tranh đã kết thúc nhiều chục năm, nhưng vết thương trong quá khứ giữa một số nước (Nhật - Trung, Nhật - Hàn…), vẫn được đưa ra mặc cả, đặt điều kiện khi có mâu thuẫn lợi ích thời hiện tại.
Việt Nam chịu nhiều tổn thất nặng nề trong chiến tranh do bên ngoài gây ra, có quyền “tính sổ” với các nước từng mang bom đạn rải trên đất nước mình, dân mình. Nhưng các nhà ngoại giao, chính trị, quân sự Việt Nam đã chủ động bắc cây cầu “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Nhịp cầu đầu tiên là hợp tác khắc phục hậu quả chất độc da cam, bom mìn, tìm kiếm hài cốt binh sỹ…
Trải qua 25 năm, Việt Nam và Hoa Kỳ từ kẻ thù trở thành đối tác toàn diện, hợp tác thiết thực, hiệu quả về kinh tế, khoa học, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Tuy còn những khác biệt nhưng hai nước quyết tâm xây dựng quan hệ hợp tác cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ truyền thống, hữu nghị lâu đời, nhưng lịch sử quan hệ 2 nước cũng có những thăng trầm. Bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh biên giới phía Bắc, 2 nước cần tiếp tục giải quyết các tồn đọng, đặc biệt là phân định biên giới trên bộ biển và trên biển.
Việt Nam cần duy trì đường biên giới hòa bình, hữu nghị để tập trung xây dựng và phát triển đất nước. Trung Quốc cũng cần môi trường thuận lợi để giải quyết các vấn đề đối ngoại, đối nội, thực hiện mục tiêu chiến lược “bốn hiện đại hóa”.
Đó là lợi ích chung giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, Việt Nam và Trung Quốc đã đàm phán, ký kết hiệp định phân định vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ và phân định, cắm mốc biên giới trên bộ.
Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ là một dấu mốc rất quan trọng để Việt Nam thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động tích cực hội nhập quốc tế.
Trong quan hệ đa phương, Việt Nam cũng luôn quán triệt, thực hiện quan điểm, phương châm vì lợi ích chung. Giữa các nước ASEAN và đối tác, giữa các đối tác với nhau vẫn tồn tại một số khác biệt. Nhưng trong các diễn đàn, cơ chế liên quan, nhất là do Việt Nam chủ trì, điều hành, chúng ta đã tìm kiếm, lựa chọn cái chung nhất mà các nước đều quan tâm, đều có lợi ích để trao đổi và linh hoạt, khéo léo dẫn dắt, thuyết phục, đưa các hội nghị, tiến trình đến đích, cùng cam kết trong tuyên bố chung.
Điều đó thể hiện rất rõ trong năm 2020, các hội nghị AMM-53, ADMM, ADMM+… Lợi ích chung chính là sự kết nối khu vực, tăng cường hợp tác, với ASEAN là trung tâm, duy trì hòa bình, ổn định, an ninh ở khu vực, trong đó có Biển Đông, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Bài học từ thực tiễn: Việc tìm kiếm lợi ích chung, hài hòa giữa lợi ích của mình với lợi ích chính đáng của các nước khác rất quan trọng nhưng cũng rất khó khăn, phức tạp, phải đi từng bước thận trọng. Khi tìm được lợi ích chung cơ bản (lợi ích sống còn), lợi ích tương đồng, từng bên có thể nhượng bộ các lợi ích thứ yếu. Để tìm kiếm lợi ích chung, hài hòa lợi ích, các bên cần: một là biết mình; hai là biết đối tác; ba là xác định đúng, phù hợp lợi ích của mình, của đối tác và biết nhượng bộ hợp lý; bốn là có lòng tin và tạo lòng tin cho đối tác. |
Hòa bình, hợp tác, duy trì an ninh, an toàn hàng hải, hàng không, tự do lưu thông trên Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực. |
Tìm lối mở cho vấn đề Biển Đông
Tranh chấp chủ quyền, tranh giành lợi ích ở Biển Đông là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều bên. Khác biệt yêu sách chủ quyền quá lớn. Chủ quyền lãnh thổ là lợi ích quốc gia cốt lõi, không thể tùy tiện nhượng bộ. Nếu vẫn giữ tư duy “Tổng bằng không” thì mọi nỗ lực giải quyết tranh chấp đi vào ngõ cụt. Nếu không kiềm chế, tính toán, xử lý sai lầm có thể xảy ra xung đột, chiến tranh.
Kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo nhưng để xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh thì hậu họa vô cùng lớn. Là điều mà Việt Nam, Philippines, Malaysia và các nước khác không bao giờ muốn. Nếu gây chiến tranh biển đảo, Trung Quốc sẽ đánh mất hình ảnh thân thiện. Họ sẽ buộc các nước xích lại gần nhau, tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài, tạo thời cơ để Mỹ hình thành mặt trận kiềm chế Trung Quốc. Môi trường thuận lợi để thực hiện BRI, mục tiêu “Giấc mộng Trung Hoa” bị ảnh hưởng lớn. Hòa bình, hợp tác, duy trì an ninh, an toàn hàng hải, hàng không, tự do lưu thông trên Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực.
Điều tiên quyết là các bên phải tự kiềm chế, cam kết không sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực và có thiện chí, từng bước xây dựng lòng tin. Hai hoặc một số bên liên quan lựa chọn khu vực biển thực sự có tranh chấp để hợp tác kinh tế bình đẳng, cùng có lợi.
Với dự án hợp tác trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các nước có thể ưu đãi nhất định với Trung Quốc, nhưng không xâm hại đến chủ quyền hợp pháp của mình. Thông qua hợp tác, giao lưu giữa các lực lượng, trao đổi thông tin, tăng cường hiểu biết, thỏa thuận các nguyên tắc, xây dựng lòng tin, tạo môi trường, không khí thuận lợi cho đàm phán, giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền.
Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, cần có trung gian hòa giải. ASEAN và các tổ chức liên quan của Liên hợp quốc có thể phát huy vai trò dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 và cơ chế khu vực (COC) thiết thực, hiệu lực… Đồng thời với tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, cần giữ đồng thuận xã hội, tạo cơ sở cho lãnh đạo ra quyết sách chính trị phù hợp với luật pháp quốc tế, tình hình thực tế, các bên có thể chấp nhận được.
Giải quyết mâu thuẫn, khác biệt lợi ích trong quan hệ quốc tế nói chung, tranh chấp chủ quyền Biển Đông nói riêng phải vượt qua nhiều cánh cửa. Lợi ích chung là chìa khóa mở cánh cửa đầu tiên. Hài hòa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích chung là bài học của Việt Nam, của cộng đồng quốc tế.