Lãnh đạo Đảng và Nhà nước chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu Bộ Ngoại giao dự Đại hội XIII của Đảng. (Ảnh: Tuấn Anh/TGVN) |
Những chuyển biến chưa từng có
Theo Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn, 5 năm nhiệm kỳ Đại hội XII (2016-2021) là giai đoạn thế giới và khu vực chứng kiến những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, với những rung lắc ở tầm hệ thống chưa từng có kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã đẩy nhanh các xu thế đã diễn ra trong những năm qua. Trong đó, toàn cầu hóa và liên kết kinh tế đứng trước yêu cầu cần được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn, nhất là trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc, dân túy nổi lên ở một số nơi trên thế giới. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đã trở thành mặt nổi trội trong quan hệ quốc tế. Việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ, vừa tạo ra cơ hội phát triển nhảy vọt, vừa đặt ra nguy cơ về tụt hậu số; các thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, thiên tai, an ninh nguồn nước, an ninh mạng, dịch bệnh… tiếp tục nổi lên gay gắt. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là các xu thế lớn, song đang gặp nhiều thách thức.
Điều đáng tự hào là trong nhiệm kỳ Đại hội XII, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chung sức, đồng lòng vượt qua nhiều khó khăn, đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt: quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm; riêng năm 2020 mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng dương 2,91%, thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng cao nhất thế giới.
Tin liên quan |
Việt Nam sau Đổi mới là một kỳ tích, một ngạc nhiên đầy thú vị |
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 1,7 lần, từ 327,8 tỷ USD năm 2015 lên khoảng 543,9 tỷ USD năm 2020. Lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam giai đoạn 2015-2019 tăng 2,3 lần, từ 7,9 triệu lên 18 triệu với tốc độ 22,7%/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Uy tín và vị thế quốc tế của đất nước ngày một nâng cao.
“Góp phần quan trọng trong những thành tựu có ý nghĩa lịch sử đó là nỗ lực không ngừng nghỉ của ngành đối ngoại, với các trụ cột Đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà nước, Đối ngoại nhân dân, triển khai mạnh mẽ, nhất quán và hiệu quả đường lối đối ngoại Đại hội XII, thúc đẩy và tạo lập những điều kiện thuận lợi nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Những dấu ấn nổi bật
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn cho biết, trên tinh chủ động, tích cực nắm bắt và tạo dựng được thời cơ, kiên trì và linh hoạt vượt qua những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài, đối ngoại trong nhiệm kỳ qua đã đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần tích cực vào củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thu hút các nguồn lực phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.
Quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng chung biên giới, các nước trong khu vực, các nước lớn, các đối tác ưu tiên, chủ chốt tiếp tục được củng cố và đi vào chiều sâu, thực chất, tạo dựng được khuôn khổ quan hệ ổn định, bền vững. Các khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện được mở rộng, trên tinh thần lựa chọn đối tác có trọng tâm, trọng điểm. Trong giai đoạn này, ta đã thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện với 5 nước, nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược với 2 nước, từ Đối tác chiến lược lên Đối tác chiến lược toàn diện với 1 nước, nâng tổng số quan hệ Đối tác chiến lược / Đối tác toàn diện lên 30 nước.
Việt Nam đang trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn. Trao đổi đoàn các cấp với các đối tác được duy trì đều đặn, thường xuyên, kể cả vào những thời điểm quan hệ nảy sinh vấn đề, cho thấy chiều sâu, tính thực chất trong quan hệ của ta với các đối tác.
Ngay cả trong khó khăn của đại dịch Covid-19, đối ngoại vẫn điều chỉnh linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả với các hình thức ngoại giao trực tuyến, đồng thời ta đã đẩy mạnh ngoại giao y tế và hợp tác quốc tế phòng chống dịch, qua đó nâng cao hình ảnh một Việt Nam có khả năng thích ứng, chống chịu cao với các thách thức bên ngoài, và là thành viên tích cực, chủ động, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Hội nhập quốc tế, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, thu hút thêm nhiều nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Trong 5 năm qua, đối ngoại đã thúc đẩy tạo dựng nhiều khuôn khổ thuận lợi cho hợp tác quốc tế, đặc biệt là việc tham gia và ký kết 2 hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới là CPTPP và EVFTA và 1 FTA quy mô hàng đầu thế giới là RCEP, mang lại những cơ hội to lớn về mở rộng, đa dạng hóa thị trường và tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Hội nhập chính trị, an ninh, quốc phòng ngày càng đi vào chiều sâu, với dấu ấn quan trọng là việc Việt Nam lần đầu tiên cử lực lượng tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Hội nhập văn hóa - xã hội, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo cũng đạt được những bước tiến quan trọng.
Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển được tăng cường, tạo môi trường thuận lợi và trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các địa phương và doanh nghiệp. Công tác tham mưu, nghiên cứu các vấn đề kinh tế, chiến lược phát triển được đẩy mạnh, với nhiều báo cáo tham mưu có chất lượng, đưa ra được nhiều khuyến nghị chính sách kịp thời, khả thi. Các hoạt động ngoại giao kinh tế được lồng ghép hiệu quả trong các hoạt động đối ngoại cấp cao; góp phần đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động, du lịch, khoa học công nghệ, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và địa phương, xử lý thỏa đáng một số vấn đề kinh tế - thương mại nảy sinh trong quan hệ với các nước.
Việt Nam ngày càng nâng tầm hiệu quả và vai trò của đối ngoại đa phương, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương; từng bước phát huy vai trò hòa giải, góp phần vào hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Ta đã khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như ASEAN, ASEM, APEC, Liên hợp quốc, G20, WEF và các cơ chế tiểu vùng Mekong; để lại nhiều dấu ấn quan trọng với việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018. Ngay cả trong bối cảnh đại dịch Covid-19, ta đã chủ động, linh hoạt phát huy tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020-2021, vừa tổ chức thành công nhiều hoạt động dấu ấn, vừa đề xuất nhiều sáng kiến có ý nghĩa, kịp thời, đáp ứng quan tâm chung và được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Với việc chủ động thúc đẩy và đứng ra tổ chức cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ 2 (2/2019) tại Hà Nội, ta đã quảng bá mạnh mẽ hình ảnh một đất nước Việt Nam khát vọng hoà bình, đổi mới, phát triển, chứng minh được năng lực đóng góp vào các vấn đề an ninh và hòa bình toàn cầu. Các hoạt động đối ngoại đa phương cũng góp phần thắt chặt thêm quan hệ của ta với các đối tác, đồng thời tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài, mở rộng không gian phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.
Đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao trình bày tham luận tại Đại hội XIII của Đảng ngày 27/1. (Ảnh: Tuấn Anh/TGVN) |
Công tác đối ngoại đã đóng góp quan trọng vào việc giữ vững chủ quyền biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ, củng cố môi trường hòa bình, ổn định. Về biên giới trên bộ, ta phối hợp triển khai hiệu quả công tác quản lý biên giới và cửa khẩu theo các văn kiện pháp lý, thỏa thuận về biên giới ký kết với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Đặc biệt, với Campuchia, ta đã ký và phê chuẩn 02 văn kiện pháp lý hóa thành quả phân giới cắm mốc đã đạt được (84%). Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước Việt Nam hiện đại, ta đã xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với tất cả các nước láng giềng.
Về biên giới trên biển, mặc dù tình hình Biển Đông thời gian qua rất phức tạp, ta vẫn kiên quyết, kiên trì đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của ta ở Biển Đông được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982; đồng thời vẫn duy trì ổn định quan hệ song phương với các đối tác. Ta tích cực đàm phán giải quyết những tranh chấp, khác biệt liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế (với Indonesia) và báo cáo chung ranh giới ngoài thềm lục địa (với Malaysia); cùng các nước ASEAN thúc đẩy đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) với Trung Quốc. Đồng thời, ta đã xử lý hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh, tích cực triển khai đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao và cả trên thực địa ở Biển Đông.
Công tác bảo hộ công dân và vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai kịp thời, hiệu quả, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu, số lượng người Việt ra nước ngoài sinh sống, lao động, học tập và du lịch ngày càng tăng, đối ngoại đã phát huy tinh thần chủ động, kịp thời, chuyên nghiệp, hiệu quả trong triển khai bảo hộ công dân đối với trên 50.000 công dân, trên 600 vụ / 1000 tàu / gần 10.000 ngư dân; kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh liên quan đến công dân ta tại nước ngoài trong đại dịch Covid-19.
Ta đã triển khai các biện pháp nhằm tạo điều kiện để kiều bào sớm ổn định địa vị pháp lý, hội nhập, làm ăn tại nhiều nước và hỗ trợ cho công dân ta gặp khó khăn. Công tác huy động nguồn lực kiều bào được triển khai bài bản, sáng tạo hơn, qua đó khuyến khích cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp kinh tế và tri thức vào sự phát triển của đất nước…
Ta đã chủ động, kiên quyết đấu tranh trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo đồng thời thường xuyên thông tin, đối thoại nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau và thu hẹp khác biệt.
Công tác ngoại giao văn hóa và thông tin đối ngoại được đổi mới hình thức và nội dung, nâng cao hiệu quả, hiệu ứng quảng bá về đất nước, văn hóa, con người và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam. Trong giai đoạn 2016-2020, ta đã vận động thành công thêm nhiều danh hiệu của UNESCO, nâng tổng số di sản tại Việt Nam lên 39 di sản, qua đó vừa đóng góp vào bảo vệ các giá trị của nhân loại, vừa tạo nguồn lực mới cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở nhiều địa phương.
Về công tác thông tin đối ngoại, ta đã chủ động thông tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước tới cộng đồng quốc tế và kiều bào ta ở nước ngoài, tạo thuận lợi cho hàng nghìn phóng viên, cơ quan báo chí quốc tế vào Việt Nam đưa tin, viết bài, góp phần tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về nước ta, đồng thời phản bác, ngăn chặn, vô hiệu hóa những luận điệu xuyên tạc về Đảng và Nhà nước ta. Ta đã ứng dụng hiệu quả các hình thức tương tác mới, tận dụng mạng xã hội ngoại giao số và các hình thức trao đổi trực tuyến, đặc biệt trong thời kỳ đại dịch Covid-19...
Tin liên quan |
10 dấu ấn đối ngoại của Việt Nam năm 2020 |
Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự phối hợp giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân ngày càng chặt chẽ, kiện toàn và triển khai hiệu quả cơ chế phối hợp quốc phòng - an ninh - đối ngoại, góp phần nâng cao hiệu quả và sức mạnh tổng thể trên mặt trận đối ngoại. Triển khai Quy chế 272 về thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại, sự phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan, bộ, ngành liên quan ngày càng chặt chẽ, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong chia sẻ thông tin, phối hợp nghiên cứu, tham mưu chung, xây dựng đồng thuận nội bộ, xử lý các vấn đề vướng mắc, phức tạp nảy sinh.
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh, nhìn lại 5 năm vừa qua, những thành tựu trên càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết khi thế giới trải qua những biến động to lớn, phức tạp chưa từng có. Công tác đối ngoại đã đóng góp quan trọng, trở thành một điểm sáng trong những thành tựu chung của cả dân tộc.
Không chỉ giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định trong bối cảnh thế giới rất phức tạp, Việt Nam đã thể hiện được bản lĩnh, tinh thần chủ động thích ứng, khả năng kiến tạo và tận dụng cơ hội để không ngừng nâng cao thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước.
Trong bảng xếp hạng Chỉ số sức mạnh tại châu Á do Viện Lowy (Australia) công bố (19/10/2020), Việt Nam tăng một bậc từ 13 lên 12. Trong đó, về ảnh hưởng Ngoại giao, chúng ta tăng 3 bậc, vươn lên đứng thứ 2 trong Đông Nam Á. Về kinh tế, Việt Nam đã vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN với GDP ở mức hơn 340 tỷ USD. Hãng định giá thương hiệu Brand Finance của Anh nhận định giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam năm 2020 đã tăng 29% trong năm 2020, hiện đứng ở vị trí thứ 33 trong Top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới.