📞

Một đêm giao thừa

01:00 | 08/02/2016
Thời Pháp thuộc, vào tuổi hai mươi, tôi học lớp Tú tài Triết học trường Bưởi. Do đó có dịp tìm hiểu về tâm lý những đám đông của nhà xã hội học Pháp Gustave Le Bon. Theo ông, khi người ta chen chúc nhau trong một đám đông thì một sự kiện bất ngờ xảy ra thường gây cảm xúc chung, mối đồng cảm làm mờ nhạt tính cách cá nhân, cái riêng tư, cảm xúc át lý tính và tạo ra một tâm lý cộng đồng át tâm lý cá nhân.
 

Học lý thuyết thì biết vậy. Không ngờ hai chục năm sau, tôi lại có dịp thể nghiệm về tâm lý đám đông của ông. Một đêm Ba mươi Tết, mấy năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ở Thủ đô mới giải phóng, đầy phấn khởi, quanh hồ Hoàn Kiếm, trai thanh gái lịch lũ lượt đi như trảy hội. Tôi len mãi mới được một chỗ đứng tựa giữa cầu Thê Húc của đền Ngọc Sơn. Đêm tối như mực, hồi đó đèn điện còn thưa thớt. Mọi người nói chuyện ồn ào. Mười hai giờ đêm có tiếng còi rú. Mọi người im bặt, bỗng xa xa có tràng pháo nổ đầu tiên, tiếp theo là một đợt tiếng pháo kéo dài. Tôi có một cảm giác thiêng liêng khó tả, dường như tất cả đám đông chen chúc quanh tôi cùng cảm thông chia sẻ một hồn cộng đồng trong giờ phút trời đất giao hòa, năm cũ bước sang năm mới. Nhất là khi trên nền tiếng pháo, tiếng cụ Hồ đọc thơ chúc Tết vang lên.

Trong khoảnh khắc đó, tôi còn cảm thấy Hồ Gươm quả là tâm hồn bất diệt của Thăng Long – Hà Nội.

Hồ Gươm với truyền thuyết kiếm thần của vua Lê, qua bao biến cố lịch sử, quả là một địa điểm thiêng liêng của đất nước. Không chỉ có Hồ Gươm mà tất cả các hồ đầm đã tạo ra cho Thăng Long – Hà Nội một tính cách, kết tinh hồn Thủ đô.

Trên thế giới, cũng có những thành phố có diện mạo hồ hay sông, như khi đến Stockholm, ta thấy ngay Thủ đô của Thụy Điển bồng bềnh trên nước, nổi trên sông, nơi ngã ba hồ Maralen đổ nước ra biển Ban – tích. Khu vực chính gồm mười bốn hòn đảo nối liền nhau bằng năm chục chiếc cầu. Có cả một khu đảo nhỏ mang tên Quần đảo, chi chít nhà nghỉ và thuyền du lịch với không biết bao nhiêu cánh buồm.

Còn Hà Nội, đối với kiến trúc sư Pháp Pédelahore, chuyên gia về kiến trúc thành thị châu Á thì cũng là một thành phố bồng bềnh trên nước, khuôn trong sông Hồng và những phụ lưu của nó. Ông còn phát hiện là hồ và đầm là tâm linh sâu lắng của Thăng Long – Hà Nội. Chẳng thế mà trong luận án tiến sĩ bậc thầy của ông được bảo vệ ở trường Đại học Paris VIII mang tên Từ góc nhìn thành thị: Hà Nội 1973 – 2006, ngay trong chương đầu, ông đã nhấn mạnh về ý nghĩa mọi mặt của đầm và hồ Hà Nội (khảo cổ, địa lý, lịch sử, xã hội học, dân tộc học, phong thủy...). Hồ và đầm Hà Nội phản ánh cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa phi vật chất của Thủ đô Việt Nam. Theo ông, bản thông điệp của chúng qua thời gian và không gian như sau: “Những hồ và đầm Hà Nội vẫn tiếp tục gửi gắm cho ai biết lắng nghe bản thông điệp sâu sắc: Chúng tôi là xương cốt của thành phố này, chúng tôi là âm bản của cơ thể thành phố, chúng tôi là những chiếc cổng dẫn đến biểu trưng của thành phố, chúng tôi là tấm gương phản ánh tinh thần Hà thành, là nền móng ngầm của tính chất thành thị mà mọi người đều có thể cảm thấy và chiêm ngưỡng đối với dân Thủ đô cũng như khách đến thăm, chúng tôi là động cơ đã bị gây mê nhưng vẫn sống động của một sự tái tạo không gian và xã hội, rất có thể thực hiện trong tương lai”.

Hồ Gươm với truyền thuyết kiếm thần của vua Lê, qua bao biến cố lịch sử, quả là một địa điểm thiêng liêng của đất nước. Không chỉ có Hồ Gươm mà tất cả các hồ đầm đã tạo ra cho Thăng Long - Hà Nội một tính cách, kết tinh hồn Thủ đô.

Kiến trúc sư Pédelahore đặt “lãnh thổ” Hà Nội vào trong trung tâm của cái nôi dân tộc Việt Nam, đồng bằng sông Hồng mà vào thời đó, mới chỉ là cái vịnh nước sâu huyền thoại Lạc Long Quân. Âu Cơ với năm mươi con xuống bể, năm mươi con lên núi biểu tượng cho việc chinh phục đầm lầy qua “cuộc hôn phối giữa đất và nước” mấy nghìn năm tạo nên thảm lúa mênh mông của nền văn minh lúa nước.

“Như một điều nghịch lý, nước xuất hiện là nguyên liệu đầu tiên của Hà Nội, nguyên liệu đánh dấu và không ngừng nhào nặn thành phố trong toàn bộ hình thức vật chất và tượng trưng cũng như những việc sử dụng cụ thể. Con người bằng những công trình thủy lợi đã nhào nặn đất trồng và đất ở, luôn tìm cách làm cho thăng bằng khi giải quyết cuộc xung đột muôn thuở giữa đất và nước”.

“Hà Nội là nơi tổng hợp yếu tố lỏng và đặc, cũng là nơi những tầng lớp địa chất xếp lên nhau và hình thành nên một hình dáng địa lý tự nhiên trước khi có xây dựng kiến trúc”.

“Nông dân Việt Nam đã kiên nhẫn xây dựng một hệ thống đê điều và sông đào, một tay cầm gàu tát nước, một tay thì nhào đất cố gắng chia sẻ và uốn nắn nước. Lãnh thổ Hà Nội có hàng ngàn những điểm thấp tạo ra không biết bao nhiêu hồ ao, những hồ ao này cùng với sự phát triển bề mặt của thành phố sẽ là khung ngầm những yếu tố tổ chức lóng lánh của thành phố tương lai và tạo nên bản sắc của từng khu phố”.

Pédelahore cũng thành kính trích dẫn công trình của nhà địa lý học trứ danh Pierre Gourou về Người nông dân trung châu Bắc Kỳ (1936). Gourou đã nghiên cứu cấu trúc dân cư dày đặc của hệ thống các làng ven sông Hồng. Dưới ánh sáng của sự phân tích, người ta có thể thấy là tất cả các thành thị miền Bắc Việt Nam đều là sự kéo dài và phát triển của nông thôn. Điều này cho thấy tính chất đặc biệt của thành thị Việt Nam, và có thể của cả Á Đông, khác với các thành thị phương Tây với sự gián đoạn giữa nông thôn và thành thị... Pédelahore cho hồ và đầm Hà Nội là nguyên liệu thô, cũng có giá trị ngang với những nguyên liệu kiến trúc Hà Nội khác như gạch đá, gỗ, tre. Nguyên liệu nước ấy luôn luôn đi đôi với đất.

Từ sau Đổi mới, Hà Nội xây dựng dồn dập và đô thị hóa nhanh chóng nhưng trong hoàn cảnh hiện đại hóa, hồ và đầm vẫn mang tính chất thời sự trong khi ngoại vi Hà Nội những tòa nhà mọc lên như nấm, các hình thức kiến trúc xen nhau như những yếu tố tổ chức, không gian thành thị vẫn là hồ ao, là những lá phổi để hô hấp.

Về mặt tâm linh, với hàng trăm đền chùa, hồ ao cũng là nơi kết tinh những hình mẫu biểu trưng nghệ thuật văn học. Chỉ cần dẫn ra vài thí dụ. Ngoài hồ Hoàn Kiếm với chuyện rùa vàng còn có Hồ Tây với huyền thoại về Trâu vàng, tục thờ Mẫu phủ Tây Hồ... Hồ đầm cũng là nơi có nhiều hoạt động văn hóa của dân chúng, nơi nghỉ ngơi thư giãn, gặp bạn, đánh cờ, tập thể dục... Hồ đầm Hà Nội đã đi sâu vào tâm linh con người, vào tiềm thức tập thể.

Pédelahore kết luận về hồ ao Hà Nội: “Chất liệu nước, trong hoặc mang nặng đất, dẫu chảy hay lặng, gắn bó một cách hữu cơ với kiến trúc, với lãnh thổ mà nó nhào lặn, nước hiện thân vật chất hay tính chất sâu sắc tổng hợp hài hòa của nền văn hóa Việt Nam với tính giản dị và tính tự nhiên. Do đó mà hồ và đầm Hà Nội thể hiện một ẩn dụ và vật chất của tâm hồn Hà Nội”.