Chị Ngô Thị Tuyết cùng em trai Ngô Văn Nết. |
Sinh ra trong một gia đình cơ sở cách mạng tại xã Bình Đông, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), mới 12 tuổi Ngô Thị Tuyết đã hăng hái làm nhiệm vụ liên lạc đưa tin, tiếp tế cho lực lượng vũ trang địa phương. Vừa tròn 15 tuổi (năm 1964), chị đã trở thành chiến sĩ du kích mật, lập được nhiều chiến công xuất sắc và được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.
Cuối năm 1965, trong một trận chiến đấu ác liệt để bảo vệ Đoàn cán bộ Huyện ủy Bình Sơn, chị bị thương nặng và rơi vào tay địch. Chúng đưa chị về Bệnh viện Quảng Ngãi băng bó và chờ chị tỉnh lại để tra tấn, nhưng lực lượng của ta đã đột nhập vào bệnh viện, bí mật đưa chị về căn cứ an toàn. Do bị thương nặng, Dũng sĩ Ngô Thị Tuyết được tổ chức đưa ra Bắc chữa bệnh. Nằm trên cáng thương của đồng đội đi ngược Trường Sơn ròng rã hơn ba tháng trời, ngày 15/2/1968, chị mới đến Hà Nội và hoàn toàn không ngờ chỉ hai hôm sau là được gặp Bác Hồ.
Đúng 8h30 phút ngày 17/2/1968, chị được đón vào Phủ Chủ tịch bằng xe ôtô. Hình ảnh đầu tiên mãi in sâu trong tâm trí chị là một ông cụ râu tóc bạc phơ ngồi đọc sách trong nhà sàn. Vừa thấy chị, Bác bảo: “Cháu Tuyết đấy à? Cháu có khỏe không? Cháu ngồi xuống đây, kể cho Bác nghe chuyện đánh giặc ở quê cháu”.
Thế là, chị lần lượt kể cho Bác nghe những trận chống càn, những lần tấn công đồn địch, rồi chuyện mình và các bạn ở Bình Đông giả vờ vào đồn địch chơi để nắm tình hình và lén lấy được vũ khí của địch...
Bác lại hỏi: “Ở miền Nam, đồng bào ta sống thế nào, có vất vả lắm không?” Tuyết thưa với Bác rằng, đồng bào miền Nam tuy còn gian khổ, nhưng vẫn một lòng một dạ theo Bác, theo Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Rồi chị kể cho Bác nghe trên đường vượt Trường Sơn ra Bắc, chị gặp vô số những đoàn quân tiến vào Nam và có nhiều người bảo chị: “Ra ngoài đó, nếu được gặp Bác Hồ thì hãy báo cáo với Bác là các anh bộ đội quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để giải phóng cho được miền Nam, đón Bác vô thăm!”. Nghe đến đây, nước mắt Bác lăn dài trên gò má.
Trưa hôm ấy, chị vinh dự được ăn cơm cùng Bác. Bữa cơm của vị Chủ tịch Nước cũng chỉ đơn giản là canh cà, dưa muối và một ít thịt luộc. Khi Tuyết ăn xong, thấy cơm còn dính quanh miệng chén, Bác nhỏ nhẹ bảo: “Cháu phải ăn cho hết những hạt cơm ấy. Đồng bào miền Nam ở trong đó không có đủ cơm ăn, nhân dân cả nước còn phải dành gạo cho chiến trường. Chúng ta không nên lãng phí mà phải biết nâng niu những gì đã có”. Chị Tuyết không bao giờ có thể quên được sự bình dị của Bác giữa đời thường.
Sau lần gặp đó, chị được cử đi học văn hóa ở Hưng Yên và nhiều lần được tham gia Đoàn đại biểu nhân dân miền Nam đến một số nước trên thế giới để tố cáo tội ác đế quốc Mỹ. Cứ sau mỗi chuyến đi, chị lại được Bác gọi đến hỏi chuyện. Người rất vui khi nghe chị báo cáo về sự ủng hộ của nhân dân các nước đối với Việt Nam trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Và chị vẫn còn nhớ như in lời dặn của Bác trong những lần gặp ấy. Nào là khi nghe máy bay địch đến phải xuống hầm, đi học phải đội mũ rơm, phải dùng phèn chua hòa vào nước để rửa mặt phòng bệnh đau mắt hột, phải thường xuyên giúp đỡ nhà dân nơi mình ở nhờ, làm những công việc hàng ngày cùng họ…
Lần cuối chị được gặp Bác là vào đầu Thu năm 1969. Lần này, Bác đã gầy đi rất nhiều. Chị nắm tay Bác mà nước mắt vòng quanh. Còn Bác thì vẫn ân cần như bao lần gặp trước, bảo: "Gặp Bác phải mừng, chứ sao lại khóc?"…
Cô gái Tuyết ngày đó, giờ đã lên chức bà ở tuổi 60. Bà Tuyết bảo, với bà, bảy lần được gặp Bác Hồ là niềm vinh dự và hạnh phúc vô giá. Hình ảnh thân thương, trìu mến và những lời căn dặn, chỉ bảo của Người mãi mãi tỏa sáng trong đời bà!
LÊ VĂN THƠM