Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris có chuyến thăm chính thức Singapore và Việt Nam, thể hiện ưu tiên chiến lược của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á. (Nguồn: Reuters) |
Đại sứ đánh giá như thế nào về chuyến thăm của Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris tới Singapore và Việt Nam trong thời điểm này?
Đây là chuyến thăm cấp cao đầu tiên của Mỹ dưới thời Tổng thống Joe Biden đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương, mà lại chọn Đông Nam Á, chọn Việt Nam và Singapore, thì tự điều này đã là thông điệp rất ý nghĩa.
Cần đặt chuyến đi trong tổng thể ưu tiên chiến lược của Mỹ về gắn kết với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Với ưu tiên đó, càng thấy rõ Mỹ coi trọng vai trò của Đông Nam Á trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Tại đây, nhân tố ASEAN trong cấu trúc khu vực chung rất quan trọng và vai trò trung tâm của ASEAN tiếp tục được đề cao. Còn về Việt Nam và Singapore, thông báo của Nhà Trắng về chuyến đi, cũng khẳng định đây là hai đối tác rất quan trọng ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Mỹ chọn Việt Nam trong chuyến thăm lần này ít nhất với hai lý do.
Thứ nhất, về song phương, quan hệ Việt-Mỹ thời gian qua đã có đà phát triển và đến thời Tổng thống Joe Biden có nhiều cơ hội để tiếp tục mở rộng trên tất cả các khía cạnh. Tham vấn cấp cao, xây dựng lòng tin tiếp tục được duy trì, gắn chặt với các nguyên tắc trong quan hệ hai nước, trong đó có nguyên tắc tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Nhân dân Mỹ cũng ủng hộ một đất nước Việt Nam độc lập và thịnh vượng. Có thể nói, mọi động thái đều cho thấy nước Mỹ coi trọng Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam có vai trò quan trọng trong ASEAN và khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chuyến thăm của bà Kamala Harris dù là đến Singapore hay Việt Nam đều mang những lợi ích song trùng cả về các mối quan hệ song phương và quan hệ đa phương. Nước Mỹ muốn tái cam kết, muốn cùng xây dựng quan hệ đối tác trong khu vực.
Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Phạm Quang Vinh. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Theo Đại sứ, đâu sẽ là những nội dung trọng tâm trong khuôn khổ chuyến thăm?
Ở Việt Nam, trong chuyến thăm lần này, bên cạnh cam kết thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác sẵn có trong quan hệ hai nước, chắc chắn 2 bên sẽ bàn về hợp tác chống dịch Covid-19 và vaccine.
Mỹ là một trong những nước đối tác cung cấp số lượng vaccine lớn nhất cho Việt Nam đến thời điểm này với 5 triệu liều. Washington còn tiếp tục cam kết sẽ cung cấp thêm vaccine cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, Mỹ cũng hỗ trợ Việt Nam nhiều trang thiết bị y tế để chống dịch khác.
Ngoài ra là về phục hồi và bảo đảm chuỗi cung ứng. Đại dịch Covid-19 đã khiến chuỗi cung ứng, sản xuất toàn cầu bị gián đoạn, đứt gãy. Do đó, chuyến thăm lần này cũng là cơ hội để Mỹ giúp Việt Nam cũng như Singapore duy trì chuỗi cung ứng, hướng tới phục hồi chuỗi cung ứng sau đại dịch.
Tôi có nhiều lần trao đổi với các doanh nghiệp Mỹ, họ cũng bày tỏ sẵn lòng chung tay với Chính phủ Việt Nam kiểm soát dịch bệnh, khôi phục sản xuất.
Rất có thể, lần này, hai bên sẽ công bố việc đặt trụ sở Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Mỹ (CDC) khu vực tại Việt Nam. Gần đây, báo chí Mỹ và khu vực đã đưa về thông tin này. Tôi cho rằng, điều này thể hiện cam kết lâu dài của Mỹ không chỉ với Việt Nam mà với cả khu vực. Từ Việt Nam, Mỹ có thể phát triển, kết nối hợp tác y tế với cả khu vực Đông Nam Á.
Hơn nữa, chuyến đi của Phó Tổng thống Mỹ chắc chắn sẽ tái khẳng định nỗ lực hợp tác giữa hai nước về khắc phục hậu quả chiến tranh.
Chuyến thăm Việt Nam vừa qua của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lloyd Austin cũng đã cho thấy tinh thần hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này, nhấn mạnh việc tẩy độc sân bay Đà Nẵng, sân bay Biên Hòa, giúp đỡ các nạn nhân trong chiến tranh.
Bản ghi nhớ (MoU) về hợp tác tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ Việt Nam được ký kết nhân chuyến thăm của Bộ trưởng Lloyd Austin mang ý nghĩa rất lớn, vừa mang ý nghĩa nhân đạo hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa góp phần tăng cường lòng tin giữa hai bên.
Quan hệ Việt-Mỹ, qua các giai đoạn trong suốt 26 năm ngày càng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu, tính toàn diện và tính chiến lược. Trong hơn một phần tư thế kỷ qua, các đời Tổng thống Mỹ đều đã đến thăm Việt Nam. Lần này, ngay những tháng đầu của nhiệm kỳ Tổng thống Joe Biden, Phó Tổng thống Mỹ đã thăm Việt Nam.
Hai bên có khuôn khổ hợp tác Đối tác toàn diện, lại có các nguyên tắc bao trùm như là tôn trọng thể chế chính trị của nhau; Mỹ nhất quán ủng hộ một Việt Nam độc lập và thịnh vượng. Đó là câu chuyện xây dựng lòng tin và cơ sở cho quan hệ hai nước.
Ngoài ra, đan xen lợi ích của Việt Nam và Mỹ không chỉ ở song phương mà còn cả đa phương, ủng hộ một khu vực Đông Nam Á, rộng hơn là khu vực châu Á-Thái Bình Dương, hòa bình, ổn định và dựa trên luật lệ; ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN.
Do vậy, tôi cho rằng, đây là thời điểm chín muồi để hai bên nhìn lại và tăng cường, nâng cao hơn nữa mối quan hệ Việt-Mỹ.
Hợp tác chống dịch Covid-19 giữa 2 nước thời gian qua rất tích cực, đặc biệt là sự hỗ trợ từ phía Mỹ, Đại sứ đánh giá những nỗ lực này như thế nào?
Hợp tác Việt-Mỹ trong công tác chống dịch Covid-19 thời gian vừa qua rất đáng trân trọng. Vaccine dường như là chìa khóa để giúp các nước bước ra khỏi đại dịch. Điều quan trọng là làm sao chủ động được nguồn cung để có đủ và kịp thời vaccine.
Việt Nam đã và đang quyết liệt kiểm soát dịch, tìm gấp các nguồn cung vaccine và làm việc trực tiếp với các công ty sản xuất vaccine. Nhưng nguồn cung vaccine hiện vẫn khan hiếm.
Do đó, Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ, mong rằng, tiếp theo 5 triệu liều vừa nhận được, Mỹ sẽ tiếp tục và sớm giúp thêm vaccine cho Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam tiếp cận được với các nguồn cung vaccine nhiều hơn nữa, từ đó có thể chủ động được nguồn vaccine và sớm miễn dịch cộng đồng.
Hai chính phủ cũng có thể bàn về hỗ trợ các dự án chuyển giao công nghệ vaccine giữa doanh nghiệp 2 nước; giúp nhân lên và kết nối với chuỗi khu vực việc sản xuất vaccine tại Việt Nam, xuất phát từ chuyển giao công nghệ hay do Việt Nam nghiên cứu; vừa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn có thể trở thành mắt xích quan trọng về vaccine cho khu vực.
Việt Nam có đủ năng lực để hoàn thành trọng trách quan trọng này.
Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã nhận được 5 triệu liều vaccine do Mỹ hỗ trợ. (Ảnh: UNICEF) |
Là người theo dõi kỹ những tiến triển trong quan hệ Việt-Mỹ, Đại sứ kỳ vọng gì ở chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của một Phó Tổng thống?
Nhân chuyến thăm Việt Nam lần này của Phó Tổng thống Mỹ, tôi có ba trông đợi.
Trước hết, với quan hệ Việt-Mỹ trên đà mạnh mẽ hiện nay, rất mong lãnh đạo 2 bên bàn bạc và có lộ trình để có thể định danh cho đúng với tầm của quan hệ đối tác, đó là Đối tác chiến lược. Điều này phù hợp với lợi ích và chính sách đối ngoại của Việt Nam, cũng phù hợp với mong muốn lâu nay của hai bên về làm sâu sắc và đưa quan hệ lên tầm mới, như đã được ghi trong các văn bản chung giữa hai nước gần đây.
Bên cạnh đó, tôi mong muốn hai nước bàn luận để từng bước mở cửa và phục hồi sau đại dịch. Hai nước đang hợp tác rất tốt trong phòng, chống dịch bệnh và cần phải thúc đẩy hơn nữa để từng bước thoát khỏi đại dịch và phục hồi.
Cuối cùng, tôi hy vọng Mỹ gắn kết với khu vực, không chỉ là gắn kết để bảo đảm an ninh, trật tự dựa trên luật lệ mà còn là câu chuyện gắn kết dựa trên kinh tế và thương mại. Chỉ khi gắn kết về kinh tế và thương mại thì Mỹ mới thực sự gắn kết với khu vực và có vai trò. Việt Nam là một địa điểm tiềm năng, một mắt xích quan trọng trong khu vực để Mỹ chú trọng đầu tư.
Mỹ chưa bao giờ từ bỏ châu Á-Thái Bình Dương, tuy rằng ở mỗi thời tổng thống, châu Á-Thái Bình Dương ở các vị trí ưu tiên khác nhau, phụ thuộc vào những biến động trong môi trường quốc tế khu vực và thế giới. |
Chiến lược của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống Joe Biden đang được triển khai như thế nào, thưa Đại sứ?
Mỹ chưa bao giờ từ bỏ châu Á-Thái Bình Dương, tuy rằng ở mỗi thời tổng thống, châu Á-Thái Bình Dương ở các vị trí ưu tiên khác nhau, phụ thuộc vào những biến động trong môi trường quốc tế khu vực và thế giới.
Đến thời Tổng thống Joe Biden, ông coi trọng lợi ích nước Mỹ, nhấn mạnh cam kết lâu dài và mạnh mẽ của nước Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tổng thống Biden cũng trở lại với ngoại giao truyền thống, nhấn mạnh củng cố quan hệ đối tác và quan hệ song phương cũng như đa phương, trong đó coi trọng quan hệ với ASEAN. Nếu như cựu Tổng thống Donald Trump ưu tiên chiến lược “nước Mỹ trên hết” và ưu tiên quan hệ song phương thì phương châm đối ngoại của Tổng thống Biden đã có sự thay đổi.
Đặc biệt, chính sách của Tổng thống Joe Biden đối với Trung Quốc cũng đang trở nên rõ ràng hơn. Chính quyền Biden đã đưa ra phương châm 3 điểm: hợp tác khi có thể, cạnh tranh khi cần thiết và đối thủ khi bắt buộc.
Hai nước có nhiều khác biệt, nhưng vẫn tiếp tục các kênh tham vấn, trao đổi trong thời gian qua, như ở Alaska (Mỹ) hay Thiên Tân (Trung Quốc). Hai bên cũng nhấn mạnh việc quản trị quan hệ Mỹ-Trung Quốc một cách có trách nhiệm. Tức là, Mỹ và Trung Quốc cạnh tranh nhau trên nhiều khía cạnh nhưng vẫn có nhu cầu quản trị cạnh tranh.
Trong khu vực, Tổng thống Biden coi trọng ASEAN, mặt khác cũng hiểu rằng ASEAN không muốn bị rơi vào thế phải chọn bên, mà muốn có quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc.
Do đó, chính quyền Mỹ, kể cả trong các chuyến đi của quan chức Mỹ gần đây tới khu vực, đều khẳng định Mỹ không muốn các nước phải “chọn bên”. Đó là cách tiếp cận cho thấy Mỹ hiểu và lắng nghe ý kiến của khu vực.
Trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tôi cho rằng, nước Mỹ cần tiếp tục giành lại lòng tin của khu vực, vừa bằng những cam kết, vừa bằng những hành động cụ thể, thực chất và lâu dài.
Cùng với an ninh chiến lược, thì những câu chuyện về gắn kết kinh tế, hạ tầng, công nghệ, chuỗi cung ứng, sẽ tạo ra đan xen lợi ích trong khu vực, chắc chắn sẽ là những thông điệp về lòng tin tốt nhất.
Trân trọng cảm ơn Đại sứ!