Nếu so sánh với chi phí đắt đỏ để khai thác dầu mỏ thông thường thì việc khai thác cát dầu Canada có vẻ như hấp dẫn hơn nhiều. Khác với dầu mỏ thông thường, cát dầu là một hỗn hợp gồm đá, cát và hắc ín. Để khai thác loại nhiên liệu này cần phải sử dụng phương pháp đào mỏ chứ không phải phương pháp khoan dầu truyền thống và phải trải qua quá trình xử lý phức tạp trước khi cho ra sản phẩm cuối cùng là loại nhiên liệu lỏng có thể sử dụng được. Các hãng sản xuất năng lượng lớn cho biết, do nguồn dầu mỏ truyền thống đang ngày càng cạn kiệt nên họ phải chạy đua để ký được các hợp đồng khai thác hắc ín tại Athabasca, Bắc Alberta, Canada.
Khai thác và xử lý cát dầu là một quá trình phức tạp và tốn kém. Lớp trầm tích trên bề mặt có thể tách bỏ dễ dàng nhưng để khai thác được lớp cát dầu phía dưới cần phải sử dụng công nghệ bơm hơi nước tách hắc ín khỏi cát, sau đó bơm hắc ín lên mặt đất. Quá trình này tiêu tốn rất nhiều nước và khí gas tự nhiên để đun nóng hơi nước. Phần lớn nước sử dụng để sản sinh ra hơi nước được lấy tại chỗ và được tái sử dụng nhưng một phần được thải ra các hồ chứa cung cấp nước cho Bắc Alberta, khiến nhiều chuyên gia môi trường lo ngại rằng có thể gây ra nhiễm độc trên diện rộng. Bên cạnh đó, việc khai thác cát dầu cũng khiến cho nhiều khu rừng nguyên sinh bị phá hủy và phải tiêu tốn nhiều khí gas tự nhiên, tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường và khiến nỗ lực giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính của Canada đổ xuống sông xuống bể.
Ở Bắc Alberta còn tồn tại một nguồn năng lượng khác, đó là dầu mỏ và khí gas ở Bắc Cực. Nguồn năng lượng này một thời bị lãng quên bởi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Tuy nhiên, hiện tượng ấm lên toàn cầu đã làm tăng nhiệt độ Bắc Cực và khiến cho nhiều khối băng tan chảy, tạo điều kiện thuận lợi hơn để khai thác dầu mỏ ở khu vực này. Công ty StatoiHydro (Na Uy) là công ty đầu tiên tiến hành khai thác khí gas tự nhiên ở vùng Bắc Cực. Nhiều công ty khác cũng có kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng khai thác dầu mỏ và khí gas tại Bắc Cực thuộc phần lãnh thổ của Canada, Greenland (thuộc quyền quản lý của Đan Mạch), Nga và Mỹ.
Để khai thác được dầu mỏ và khí gas tại Bắc Cực không phải là chuyện dễ dàng bởi khí hậu mùa Đông ở đây vô cùng khắc nghiệt. Các cơn bão dữ dội và nhiệt đã hạ thấp sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe con người và cản trở việc vận chuyển dầu. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản được tham vọng của các công ty năng lượng, đặc biệt là trong một thế giới đang "khát" dầu mỏ như hiện nay. Các nhà sản xuất năng lượng lớn trên thế giới xem đáy biển Bắc Cực là cái đích tiếp theo, hay chính xác hơn là cái đích cuối cùng còn sót lại, để khai thác dầu mỏ.
Thực tế về dầu mỏ cũng là thực tế chung của khí gas và than đá. Các nguồn dự trữ truyền thống, dễ khai thác đang nhanh chóng cạn kiệt, chỉ còn lại những nguồn "phi truyền thống". Sản lượng gas của Mỹ tăng đột biến khiến giá gas trong nước giảm mạnh. Theo Bộ Năng lượng Mỹ, sản lượng gas của Mỹ sẽ tăng từ 60 triệu m3 năm 2009 lên 75 triệu m3 năm 2030 và chính người tiêu dùng là người được hưởng lợi bởi gas vẫn là loại nhiên liệu đun nấu chủ yếu trong các gia đình. Tuy nhiên, Bộ Năng lượng Mỹ cũng lưu ý rằng khi giá gas tăng, công nghệ được cải tiến sẽ tạo điều kiện thuận lợi để khai thác các nguồn khí gas đắt đỏ hơn và khí gas phi truyền thống sẽ chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng sản lượng gas của Mỹ.
Hầu hết khí gas phi truyền thống ở Mỹ được khai thác từ các loại "đá cát" (sandstone) và "đá phiến sét" (shale rock), với công nghệ phân rã sử dụng nước (hydraulic fracturing). Trong phương pháp này, nước được bơm xuống lớp đá phiến sét dưới lòng đất khiến đá nứt ra và thải ra khí gas. Rất nhiều nước bị tiêu tốn trong quá trình xử lý này và các chuyên gia môi trường lo ngại rằng, nước thải chứa các độc tố sẽ làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Hơn nữa, nhiều khu vực đang phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước, do đó quá trình phân rã sẽ làm thâm hụt lượng nước được sử dụng cho nông nghiệp và tiêu dùng của người dân. Bất chấp những hạn chế này, các chuyên gia dự báo sản lượng gas chiết suất từ đá phiến sét sẽ tăng từ 60 triệu m3 năm 2009 lên 120 triệu m3 năm 2030.
Bức tranh về than đá cũng tương tự như bức tranh về khí gas. Mặc dù các chuyên gia môi trường phản đối việc đốt than đá vì nó thải ra nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính hơn các loại nhiên liệu hóa thạch khác nhưng nền công nghiệp điện của Mỹ vẫn tiếp tục phải lệ thuộc vào than đá bởi đây là loại tài nguyên có trữ lượng dồi dào, giá lại rẻ. Tuy nhiên, các mỏ than anthracite và bituminous - hai loại than có thể sản sinh nhiều năng lượng nhất - đang ngày càng cạn kiệt.
Để khai thác được mỏ than bituminous còn lại ở Appalachia, các công ty khai khoáng phải sử dụng công nghệ "di dời đỉnh núi", trong đó các đỉnh núi sẽ bị nổ mìn san bằng; đá vụn được chất xuống các thung lũng và các dòng suối. Phương pháp này đã bị các chuyên gia môi trường và người dân tại Kentucky và Tây Virginia phản đối trong một thời gian dài bởi đá vụn, bụi bẩn và chất độc sinh ra từ quá trình khai thác đe dọa nghiêm trọng đến nguồn nước của họ. Tuy nhiên, công nghệ này lại nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Chính quyền George W.Bush với việc thông qua quy định cho phép mở rộng hoạt động khai thác sử dụng công nghệ "di dời đỉnh núi". Tổng thống Obama cam kết xóa bỏ quy định này nhưng lại ủng hộ việc sử dụng "than sạch". Người dân Mỹ đang chờ xem liệu Obama có thể kiểm soát được ngành công nghiệp than đá hay không.
Xung đột mới
Các nhà khoa học dự báo phải đến giữa thế kỷ này chúng ta mới bước vào Kỷ nguyên Năng lượng thay thế. Từ giờ cho đến lúc ấy, trái đất sẽ tiếp tục bị hủy hoại bởi các hoạt động thăm dò và khai thác các nguồn nhiên liệu hóa thạch. Thế giới sẽ chuyển sang khai thác các mỏ dầu, than đá và khí gas ở những nơi xa xôi, điều kiện khắc nghiệt, sử dụng công nghệ tinh vi, phức tạp. Chi phí khai thác những mỏ nhiên liệu này khá đắt đỏ do đó giá năng lượng sẽ tăng cao.
Thêm nữa, tranh chấp lãnh thổ liên quan đến nguồn nhiên liệu sẽ tiếp tục gia tăng do các nhà sản xuất năng lượng lớn như Mỹ, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Nga, Ấn Độ và Nhật Bản đang chạy đua giành quyền kiểm soát các mỏ nhiên liệu còn lại. Na Uy và Nga đang tranh chấp vùng lãnh hải tại biển Barents, nơi có trữ lượng khí gas khá lớn; trong khi đó Trung Quốc và Nhật Bản cũng đang xung đột xung quanh chủ quyền vùng biển Đông Trung Hoa, vị trí được cho là tồn tại một mỏ khí gas quan trọng. Các nước Canada, Đan Mạch, Na Uy, Nga và Mỹ đều đã tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển Bắc Cực, nơi giàu tiềm năng về nhiên liệu. Chủ quyền mà các nước tuyên bố trùng chéo nhau dẫn đến tranh chấp về lãnh thổ.
Các tranh chấp này chưa dẫn đến xung đột quân sự nhưng có lúc các tàu chiến và máy bay đã được triển khai và nguy cơ căng thẳng dẫn đến xung đột đang gia tăng. Thực tế này khiến chúng ta liên tưởng đến các quốc gia giàu có về dầu mỏ, đồng thời cũng là những điểm nóng về xung đột hiện nay như Nigeria, Trung Đông và Caspi. Trong một vài thập kỷ tới, xung đột liên quan đến các nguồn nhiên liệu hóa thạch còn lại ở những nơi có điều kiện khắc nghiệt khó có khả năng suy giảm.
Chúng ta chỉ có hai sự lựa chọn để rút ngắn giai đoạn chuyển giao giữa Kỷ nguyên Dầu mỏ và Kỷ nguyên Năng lượng thay thế là: tăng tốc quá trình nghiên cứu, sản xuất các loại năng lượng thay thế và giảm sự lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch thông qua việc điều chỉnh cách sinh hoạt và sản xuất. Điều này nói thì dễ nhưng làm thì không hề đơn giản.
Khai Tâm(Theo Foreign Policy)
Kỳ 1: Thế giới hậu kỷ nguyên dầu mỏ