📞

Thủ tướng Phạm Minh Chính lần đầu thăm Campuchia: Sẽ ký nhiều văn kiện hợp tác quan trọng, tạo khuôn khổ làm sâu sắc quan hệ hữu nghị truyền thống

Xuân Thông 20:00 | 07/11/2022
Nhân dịp Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm chính thức Vương quốc Campuchia từ ngày 8-9/11, dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 40, 41 và các Hội nghị cấp cao liên quan từ ngày 10-13/11, Đại sứ Việt Nam tại Campuchia Nguyễn Huy Tăng đã trả lời phỏng vấn về ý nghĩa chuyến thăm và những nét nổi bật trong quan hệ song phương.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Campuchia Hun Sen tại Lễ kỷ niệm 45 năm "Hành trình hướng tới lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot" của Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen (20/6/1977-20/6/2022). (Ảnh: Tuấn Anh)

Đại sứ đánh giá như thế nào về những thành quả đạt được trong quan hệ song phương thời gian qua?

Như chúng ta đã biết, Việt Nam-Campuchia là hai nước láng giềng anh em, có mối quan hệ đoàn kết hữu nghị truyền thống từ lâu đời. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, quan hệ hai nước đã được thử thách, tôi luyện và phát triển ngày càng sâu rộng, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc.

Những thành tựu của quan hệ Việt Nam-Campuchia trong suốt 55 năm qua, không chỉ là thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở mỗi nước, mà còn thể hiện ở sự hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp tích cực cho sự phát triển của mỗi nước, góp phần củng cố và tăng cường ngày càng vững chắc hơn nữa mối quan hệ Việt Nam-Campuchia, theo phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Trong đó, có thể nêu lên một số thành tựu nổi bật sau đây:

Thứ nhất, quan hệ chính trị không ngừng phát triển và đã thực sự đóng vai trò nòng cốt, định hướng trong tổng thể quan hệ hợp tác hai nước. Hai bên luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ chính trị và quyết tâm củng cố quan hệ hợp tác truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt Nam-Campuchia.

Hàng năm, lãnh đạo cấp cao hai nước luôn duy trì các cuộc gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc dưới nhiều hình thức và đã đạt được nhiều thỏa thuận chiến lược, vừa định hướng cho tổng thể quan hệ, vừa kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhằm thúc đẩy sự hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.

Đặc biệt, trong năm 2022 - năm Hữu nghị Việt Nam-Campuchia, Campuchia-Việt Nam, kỷ niệm 55 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước, hai bên đã và đang trao đổi nhiều đoàn cấp cao và các cấp. Về phía Việt Nam có các đoàn: Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm Campuchia từ ngày 8-9/11, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thăm Campuchia từ ngày 19-22/11. Trước đó, đã có các đoàn: Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung, Bộ trưởng Bộ Ngoài giao Bùi Thanh Sơn, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam-Campuchia Nguyễn Thị Thanh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Nga…

Về phía Campuchia có các đoàn: Chủ tịch Thượng viện Say Chhum; Chủ tịch Quốc hội Heng Sam Rin; Phó Thủ tướng, Chủ tịch Hội Hữu nghị Campuchia-Việt Nam Men Sam An; Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tea Banh; Đại tướng Hun Maneth, Phó Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia, Tư lệnh Lục quân Campuchia…

Đáng chú ý, trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát vào năm 2020 và tiếp tục diễn biến phức tạp những năm tiếp theo, hai bên đều phải căng mình đối phó và ngăn chặn đại dịch, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ban, ngành, địa phương và các tổ chức nhân dân đã thường xuyên có các cuộc điện đàm thăm hỏi, chia sẻ và động viên lẫn nhau dưới mọi hình thức cả trực tiếp và trực tuyến;

Hai bên phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau kịp thời và hiệu quả trong công tác phòng, chống dịch thông qua nhiều hoạt động thiết thực, đóng góp tích cực cho nỗ lực kiểm soát dịch bệnh tại mỗi nước, thể hiện sống động tinh thần đoàn kết và truyền thống tương trợ lẫn nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn giữa hai dân tộc.

Ngoài ra, các cơ chế hợp tác song phương và đa phương giữa hai nước như Ủy ban hỗn hợp Việt Nam-Campuchia về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học và thuật, hội nghị hợp tác và phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam-Campuchia, Hội nghị cấp cao tam giác phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam… tiếp tục được duy trì tổ chức thường xuyên và phát huy hiệu quả cao, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19.

Thứ hai, quan hệ hợp tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả, là một trong những trụ cột quan trọng của quan hệ hai nước. Hai bên phối hợp giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và môi trường hòa bình cho sự phát triển ở mỗi nước, tiếp tục phối hợp thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác, cũng như Kế hoạch hợp tác hàng năm giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an Việt Nam với Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ Campuchia.

Hai bên thường xuyên trao đổi thông tin, tình hình, chia sẻ kinh nghiệm, ngăn chặn và vô hiệu hóa các hoạt động của các lực lượng thù địch chống phá Việt Nam, Campuchia và quan hệ hai nước; tăng cường phối hợp tuần tra chung, giữ vững an ninh, trật tự, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới trên bộ và trên biển; tổ chức giao lưu kết nghĩa, duy trì đường dây nóng, phối hợp đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên quốc gia, các hoạt động xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, giải quyết các vấn đề nảy sinh; xây dựng củng cố, quản lý đường biên giới, vành đai an ninh, hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn khu vực biên giới; tiếp tục tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trong các thời kỳ chiến tranh tại Campuchia.

Với sự quyết tâm và nỗ lực chung của cả hai bên, Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành khoảng 84% khối lượng công việc phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền. Tháng 10/2019, hai bên đã ký kết Hiệp ước bổ sung năm 2019 và Nghị định thư ghi nhận thành quả này và Quốc hội hai nước đã phê chuẩn hai văn kiện pháp lý quan trọng nói trên, tạo nền tảng để hai bên duy trì ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới.

Hiện nay, hai bên đang tiếp tục đẩy mạnh đàm phán để giải quyết dứt điểm khoảng 16% biên giới trên đất liền chưa hoàn thành phân giới cắm mốc; nhất trí phối hợp, tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề phát sinh, trên tinh thần đoàn kết, hữu nghị, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển.

Thứ ba, quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư tiếp tục đạt được kết quả tích cực và đã đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở mỗi nước. Việt Nam và Campuchia đều là thành viên của ASEAN, Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đây là một thuận lợi lớn thúc đẩy sự phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhất là hoạt động thương mại của hai nước.

Hai bên quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi thuế quan cho hàng hóa xuất xứ từ mỗi nước; coi trọng hợp tác thương mại biên giới; hỗ trợ giúp đỡ địa phương giáp biên giới hai nước đẩy mạnh các hoạt động giao lưu thương mại.

Thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam-Campuchia giai đoạn 2021-2022 đã cam kết những ưu đãi về thuế suất, thuế nhập khẩu 0% đối với các mặt hàng có xuất xứ từ hai nước. Nếu như giai đoạn 1997-1999, kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước mới chỉ đạt khoảng 130-150 triệu USD thì từ năm 2005 trở đi kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng trung bình 30-40%/năm.

Hai năm 2020-2021 vừa qua, dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, nhưng kim ngạch thương mại giữa hai nước vẫn có sự tăng trưởng đột phá với tổng kim ngạch hai chiều năm 2020 đạt 5,32 tỷ USD; năm 2021 đạt 9,54 tỷ USD và 10 tháng đầu năm nay đạt trên 9 tỷ USD.

Đặc biệt, trong bối cảnh dịch Covid-19, chính quyền các tỉnh giáp biên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh hợp pháp tại hai nước, thông qua việc ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa qua biên giới, tích cực thúc đẩy hoạt động thương mại khu vực biên giới, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của mỗi nước.

Trong hợp tác đầu tư, đến nay Việt Nam có 196 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Campuchia với tổng số vốn đăng ký 2,92 tỷ USD, duy trì vị trí đứng đầu trong ASEAN và trong tốp 5 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Campuchia, chủ yếu là các lĩnh vực nông nghiệp (chiếm gần 70% tổng vốn đăng ký); tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông. Các dự án còn lại nằm trong các lĩnh vực hàng không, khoáng sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, vận tải kho bãi, y tế, xây dựng, du lịch - khách sạn, bất động sản và các dịch vụ khác.

Sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của Chính phủ hai nước là một trong những cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, đầu tư có bước phát triển mạnh trong những năm qua. Hai bên cũng tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như: Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam-Campuchia, Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam-Campuchia nhằm thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả. Nhờ đó, hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Campuchia có sự chuyển biến mạnh mẽ với vai trò quan trọng của các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn.

Thứ tư, quan hệ hợp tác giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là lĩnh vực được hai bên đặc biệt quan tâm, coi đây là vấn đề trọng yếu có tầm chiến lược, góp phần tích cực củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị, lâu dài vì mục tiêu phát triển của hai nước.

Hàng năm, Việt Nam dành cho Campuchia hàng trăm suất học bổng đào tạo dài hạn và ngắn hạn. Campuchia cũng dành cho phía Việt Nam 35 suất học bổng, bao gồm 15 suất học bổng đại học và sau đại học, 20 suất học bổng đào tạo ngôn ngữ, văn hóa Khmer trong vòng hai năm.

Hiện có khoảng gần 100 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Campuchia và 2.427 sinh viên Campuchia đang học tập tại Việt Nam. Ngoài ra, hai bên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dạy nghề thông qua việc tổ chức các hoạt động phát triển nguồn nhân lực.

Đặc biệt, gần đây, hai nước đã trao đổi, thống nhất với Lào để triển khai chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo trẻ ở khu vực biên giới 3 nước. Đây thực sự là một trong những nội dung hợp tác rất có ý nghĩa đối với cả 3 nước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước của mỗi nước.

Thứ năm, quan hệ hợp tác giữa các bộ, ban, ngành, các ủy ban của Quốc hội, các tổ chức đoàn thể và tổ chức nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh và đi vào thực chất hơn. Hai bên trao đổi các đoàn, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các địa phương có chung đường biên giới, tiếp tục mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm sóc y tế, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn tại các khu vực biên giới hai nước.

Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Campuchia Nguyễn Huy Tăng. (Ảnh: QT)

Những khó khăn, thách thức trong hợp tác song phương mà hai nước đang phải đối mặt là gì, thưa Đại sứ?

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, quan hệ Việt Nam-Campuchia cũng đang đứng trước một số khó khăn thách thức.

Thứ nhất, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; quan hệ giữa các nước lớn có nhiều yếu tố phức tạp, mặt cạnh tranh ngày càng gia tăng, kéo theo là sự tập hợp lực lượng của các nước lớn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt với rất nhiều biện pháp trên tất cả các lĩnh vực, đặt quan hệ giữa hai nước trước những tác động và ảnh hưởng đáng kể.

Thứ hai, các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng tác động mạnh mẽ đến đời sống quốc tế, trong đó có hai nước Việt Nam, Campuchia và quan hệ giữa hai nước.

Thứ ba, hợp tác về kinh tế đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi mới rất cao, trong khi tiềm lực của cả hai nước đều còn hạn chế nên hợp tác kinh tế chưa trở thành động lực và nguồn lực bảo đảm cho các mặt hợp tác khác.

Thứ tư, nhận thức của người dân hai nước, nhất là thế hệ trẻ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mối quan hệ Việt Nam-Campuchia cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa.

Mặc dù có những thách thức như vậy, nhưng quan hệ Việt Nam-Campuchia cũng có nhiều cơ hội và triển vọng phát triển vì các cấp lãnh đạo luôn nhận thức được rằng quan hệ giữa hai nước phát triển tốt đẹp chính là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển của mỗi nước; an ninh của nước này cũng là an ninh của nước kia, sự ổn định và phát triển của nước này là điều kiện cho sự ổn định và phát triển của nước kia. Quan hệ truyền thống tốt đẹp có từ bao đời nay, chính là nền tảng cho sự phát triển của mối quan hệ giữa hai nước trong hiện tại cũng như tương lai.

Xin Đại sứ cho biết mục đích, ý nghĩa và trọng tâm của chuyến thăm chính thức Vương quốc Campuchia của Thủ tướng Phạm Minh Chính?

Tiếp nối chuyến thăm cấp nhà nước đến Vương quốc Campuchia của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (tháng 12/2021) và các chuyến thăm của Lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước ta, chuyến thăm chính thức Vương quốc Campuchia lần này cũng là chuyến thăm Campuchia đầu tiên của Thủ tướng Phạm Minh Chính, có ý nhĩa rất quan trọng, góp phần thực hiện chủ trương của ta trong việc phát triển quan hệ với các nước làng giềng, các nước ASEAN, trong đó dành ưu tiên cao cho việc phát triển và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” với Campuchia; tiếp tục đưa quan hệ giữa hai nước đi vào giai đoạn mới trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, hợp tác hiệu quả, tôn trọng lợi ích của nhau.

Trọng tâm của chuyến thăm lần này là Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ cùng Thủ tướng Hun Sen và các Nhà Lãnh đạo khác của Campuchia trao đổi một cách sâu rộng về tình hình mỗi nước, tình hình thế giới và khu vực mà hai bên cùng quan tâm; cùng nhau nhìn nhận và đánh giá kết quả quan hệ hai nước trong thời gian qua, trao đổi, thống nhất về định hướng tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước thời gian tới.

Cũng trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên sẽ ký kết một số văn kiện hợp tác song phương và cùng nhau ra tuyên bố chung tạo khung khổ vững chắc cho việc đẩy mạnh hợp tác giữa hai nước trên mọi lĩnh vực trong thời gian tới.

Thưa Đại sứ, hai nước cần làm gì để phát triển quan hệ hợp tác trong thời gian tới tương xứng tiềm năng, quan hệ hữu nghị và kỳ vọng của mỗi bên?

Theo tôi, để thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam-Campuchia không ngừng phát triển, hai bên cần quan tâm làm tốt một số việc sau đây:

Thứ nhất, cần tiếp tục duy trì và phát huy mối quan hệ tốt đẹp về chính trị, làm nền tảng định hướng cho tổng thể quan hệ giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực; tăng cường giáo dục cho người dân, nhất là thế hệ trẻ của hai nước về truyền thống quan hệ hữu nghị, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong các thời kỳ cùng nhau đấu tranh chống kẻ thù chung để từ đó nâng cao niềm tin chính trị, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” đối với sự phát triển của mỗi nước; làm cho mỗi người dân luôn trân trọng, giữ gìn mối quan hệ giữa hai nước; biến truyền thống quan hệ tốt đẹp trong quá khứ trở thành sức mạnh đoàn kết, hợp tác cùng phát triển trong hiện tại và tương lai.

Thứ hai, bên cạnh việc tiếp tục duy trì và phát huy quan hệ tốt đẹp về chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, giáo dục-đào tạo, cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả trong hợp tác kinh tế, làm cho hợp tác kinh tế trở thành động lực và nguồn lực bảo đảm cho quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực; đồng thời đẩy mạnh giao lưu văn hóa, biến quan hệ trong lĩnh vực văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần cho quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực.

Thứ ba, cần tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, cùng nhau tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để hỗ trợ cho sự phát triển của mỗi nước.

Về Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 40, 41, xin Đại sứ cho biết về sự tham gia của Việt Nam tại kỳ Hội nghị?

Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 40, 41 và các Cấp cao liên quan diễn ra tại Phnom Penh, Campuchia từ 10-13/11 trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực phức tạp khó lường, đặt ra nhiều thách thức đối với hòa bình, ổn định và phát triển.

Trên tinh thần thiện chí, trách nhiệm và chủ động, Việt Nam mong muốn góp phần tăng cường hợp tác nội khối và với các nước đối tác, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, ổn định chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất, chuỗi lao động; ứng phó biến đổi khí hậu, sự kết nối kinh tế, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, bền vững và đẩy nhanh tiến trình phục hồi kinh tế sau dịch.

Trên bình diện an ninh, Việt Nam mong muốn thúc đẩy đối thoại và hợp tác để thu hẹp khác biệt, gia tăng điểm đồng giữa các nước ASEAN, góp phần củng cố đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN; thúc đẩy tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN.

Việt Nam cùng với ASEAN và các nước đối tác sẽ trao đổi thực chất, đối thoại thẳng thắn để nâng cấp và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác; tìm giải pháp hòa bình thỏa đáng cho các vấn đề quốc tế, khu vực phù hợp với luật pháp quốc tế; tham gia tích cực, thiện chí, phát huy giá trị đối thoại và hợp tác của các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, tôn trọng vai trò trung tâm của ASEAN, đóng góp có trách nhiệm cho hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển ở khu vực và thế giới.