Chiều ngày 25/11, Trưng bày Voi ở Tây Nguyên đã được khai mạc trang trọng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Với 40 hiện vật, 38 bức ảnh và phim video cùng hệ thống các bài viết, trưng bày được sắp xếp theo 6 chủ đề: Tập tính của voi; Bắt và thuần dưỡng voi rừng; Chăm sóc voi; Voi trong đời sống kinh tế; Voi trong đời sống xã hội; Voi trong đời sống văn hóa.
Trưng bày phản ánh vai trò của voi trong đời sống, văn hóa, xã hội cũng như những tri thức dân gian về việc bắt và thuần dưỡng voi ở Tây Nguyên. Những câu chuyện được chia sẻ qua các giọng nói của người dân ở Tây Nguyên cho thấy voi là một phần trong đời sống văn hóa Tây Nguyên, sự thay đổi vai trò của voi từ làm phương tiện vận chuyển hàng hóa, kéo gỗ sang việc chủ yếu phục vụ khách du lịch đóng góp kinh tế cho địa phương.
Không gian trưng bày Voi ở Tây Nguyên. (Ảnh: T.T) |
Phát biểu tại đây, PGS.TS. Võ Quang Trọng - Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cho biết, trong những năm qua, bên cạnh việc giới thiệu văn hoá của cư dân nước ngoài, Bảo tàng đã tổ chức nhiều cuộc trưng bày, trình diễn về các dân tộc ở Việt Nam. Cùng với trưng bày Voi ở Tây Nguyên, Bảo tàng tổ chức một số hoạt động giáo dục dành cho công chúng, như: hoạt động khám phá trưng bày, các buổi thuyết trình liên quan đến nội dung trưng bày, trình diễn của người Mnông…
“Thông qua trưng bày, chúng tôi mong muốn công chúng có cơ hội tìm hiểu về những tập quán, nghi lễ liên quan đến việc bắt, thuần dưỡng, chăm sóc cũng như giá trị của voi trong đời sống văn hóa xã hội của một số dân tộc ở Tây Nguyên, đồng thời góp tiếng nói nhằm nâng cao ý thức cùng chung tay bảo vệ động vật hoang dã nói chung và voi nói riêng”, PGS. TS. Võ Quang Trọng nói.
Tây Nguyên không những là địa bàn sinh sống của voi rừng mà còn nổi tiếng có nhiều voi nhà. Với nhiều tộc người ở đây, nhất là người Mnông, Êđê, Giarai, voi không chỉ là một tài sản lớn mà còn được coi là thành viên trong gia đình và có vai trò quan trọng trong đời sống, văn hóa, xã hội của cộng đồng.
Bắt và thuần dưỡng voi rừng là một nghề truyền thống của người Mnông ở Buôn Đôn (Đắk Lắk). Những năm đầu 90 của thế kỷ XX, Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về bảo vệ động, thực vật hoang dã có nguy cơ bị tuyệt diệt, nhiều loài, trong đó có voi, được ghi vào Sách đỏ, cấm săn bắn nên người dân cũng không còn săn bắt voi. Mặc dù vậy,rừng tự nhiên ngày càng bị thu hẹp, môi trường sống của voi bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thêm vào đó là nạn săn trộm để lấy ngà, lấy lông đuôi, số lượng voi ở Tây Nguyên giảm đến mức báo động.
Vì vậy, công tác bảo tồn voi được nhiều tổ chức quan tâm, vai trò của cộng đồng, nhất là các địa phương đang có voi, rất quan trọng. Tri thức về thuần dưỡng cũng như chăm sóc, sử dụng voi vẫn còn sống động trong ký ức của nhiều người. Đó là những giá trị văn hóa cần được lưu giữ.
PGS.TS. Võ Quang Trọng tặng hoa cho ông Khăm Phết Lào. (Ảnh: T.T) |
Trưng bày này được tổ chức với đa số hiện vật được lựa chọn từ bộ vật dụng của “Vua Voi” cuối cùng ở Tây Nguyên, ông Y Prông Êban (1910 - 2012), do con trai là ông Khăm Phết Lào tặng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam năm 2014.
Ông Y Prông Êban - thường gọi Ama Kông là cháu của Y Thu Knul (Khun Sunôp)- “Vua Voi” nổi tiếng nhất và là người đã phát triển nghề bắt, thuần dưỡng voi rừng ở Buôn Đôn (Đắk Lắk). Tương truyền Ama Kông đã bắt hàng trăm voi rừng, trong đó có 2 con voi trắng. Ông còn nổi tiếng với các thang thuốc làm từ cây cỏ hái trong rừng.
Có mặt tại trưng bày, ông Khăm Phết Lào chia sẻ ông thường theo cha trong các chuyến đi bắt voi rừng và hái cây cỏ làm thuốc. Sau khi hoàn thành một số khóa học về y học cổ truyền và tốt nghiệp trung cấp y tế, ông phát triển nghề thuốc của cha truyền lại. Hiện ông đã tặng Bảo tàng gần 30 hiện vật trong sưu tập của mình, với mong muốn di sản bắt và thuần dưỡng voi của cha mình cũng như người Mnông được lưu giữ và giới thiệu đến đông đảo công chúng.