Tư liệu hiếm về 6 công trình kiến trúc Pháp ở Hà Nội
16:37 | 10/10/2017
Những tài liệu hiếm có về các công trình kiến trúc này sẽ giúp người xem có cái nhìn toàn diện hơn về di sản kiến trúc của Hà Nội thời kỳ thuộc địa cũng như được tiếp cận với tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt đối với việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa của thành phố.
Nha Tài chính Đông Dương bắt đầu thi công vào năm 1925 và nghiệm thu chính thức vào năm 1928. Hiện nay, Nha Tài chính Đông Dương là Trụ sở Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Năm 1924, dự án xây dựng Nha Tài chính Đông Dương được phê duyệt theo thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébard với phong cách kiến trúc gần với văn hóa Á Đông, phù hợp với đặc điểm khí hậu Việt Nam. Hãng Verneuil & Gravereaud đã trúng thầu và thi công công trình.
Đây là một trong những công trình đầu tiên thể nghiệm phong cách kiến trúc Đông Dương. Ernest Hébard cũng là kiến trúc sư tiên phong mở đầu trào lưu kiến trúc kết hợp Đông Tây với hàng loạt các công trình xây dựng tại Hà Nội giai đoạn 1923 – 1936.
Ngày 3/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 41-SL giao Tòa nhà Sở Tài chính Đông Dương (số 1 Tôn Thất Đàm, quận Ba Đình, Hà Nội) làm Trụ sở của Bộ Ngoại giao. Ngày 26/8, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã trao bằng xếp hạng là Di tích Quốc gia cho Trụ sở Bộ Ngoại giao.
Từ khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm Trụ sở của Bộ Ngoại giao, nơi đây đã diễn ra nhiều sự kiện, chứng kiến nhiều cuộc họp, quyết định lịch sử quan trọng, liên quan trực tiếp đến chính sách đối ngoại cũng như vận mệnh của đất nước.
Năm 1899, Hội đồng thành phố Hà Nội nhóm họp dưới sự chủ trì của Công sứ - Đốc lí Hà Nội để trình Toàn quyền Đông Dương đề xuất xây dựng một Nhà hát nhằm phục vụ nhu cầu giải trí của giới chức Pháp tại Hà Nội. Nhà hát Lớn Hà Nội chính thức được khởi công xây dựng vào ngày 7/6/1901. Năm 1911, công trình chính thức được hoàn thành.
Công trình được thiết kết bởi hai kiến trúc sư Harlay và Broyer, trong quá trình thi công còn có sự tham gia của kiến trúc sư Lagisquet.
Đây được coi là công trình văn hóa tiêu biểu có giá trị đặc biệt về thẩm mĩ và được coi là một phần bản sao của Nhà hát Opéra Garnier ở Paris, Pháp. Nhà hát có diện tích 26.000m2 với số ghế là 870.
Nhà hát Lớn Hà Nội cùng quảng trường 19/8 trên phố Tràng Tiền ngày nay còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, là minh chứng cho sự phát triển văn hóa – xã hội của thủ đô Hà Nội và Việt Nam qua các thời kỳ.
Sở Bưu điện Hà Nội nằm trên phố Đinh Tiên Hoàng là một trong những công trình được xây dựng từ khá sớm kể từ khi Hà Nội bắt đầu được quy hoạch và mở rộng với việc lấy khu vực Hồ Gươm làm trung tâm để phát triển.
Tòa nhà đầu tiên do kiến trúc sư Henri Vildieu thiết kế và xây dựng vào các năm 1893 – 1899 theo phong cách kiến trúc tân cổ điển. Mặt chính của tòa nhà trông ra phố Đinh Tiên Hoàng, mặt bên trông ra phố Lê Thạch ngày nay.
Từ năm 1910 trở đi, tòa nhà đã được tu sửa và mở rộng nhiều lần do có những dấu hiệu thiếu đảm bảo an toàn. Năm 1943, Sở Bưu điện Hà Nội xây dựng thêm một tòa nhà mới mang phong cách kiến trúc hiện đại nằm ở góc phố Đinh Tiên Hoàng và Đinh Lễ. Công trình là tác phẩm của kiến trúc sư Henri Cerutti – Maori.
Bảo tàng Louis Finot được Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp cho xây dựng với tên gọi đầu tiên là Bảo tàng Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp nằm trên phố Phạm Ngũ Lão ngày nay nhằm bảo quản và lưu giữ tài liệu, hiện vật thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Năm 1932, Bảo tàng này được đổi tên thành Bảo tàng Louis Finot – tên vị Giám đốc đầu tiên của Viện và nay đổi thành Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Bảo tàng Louis Finot do kiến trúc sư Charles Batteur và Ernest Hébrard thiết kế. Năm 1925, thiết kế được phê duyệt với cấu trúc gồm 2 tầng: tầng 1 và tầng 2 dùng để trưng bày hiện vật, tầng hầm dùng làm phòng làm việc và kho bảo quản.
Bảo tàng được khởi công xây dựng vào năm 1926 và hoàn thành vào năm 1932 với diện tích 1.835m2. Đây là một trong những công trình văn hóa được xếp vào loại tiêu biểu nhất, đại diện cho phong cách kiến trúc Đông Dương, kết hợp tinh tế các giá trị của kiến trúc Pháp với kiến trúc bản địa.
Trường Đại học Đông Dương có tòa nhà đầu tiên xây dựng vào năm 1904 nằm trên phố Lê Thánh Tông ngày nay và được mở rộng theo thiết kế của kiến trúc sư Bussy năm 1917. Trước đó, năm 1902, chính quyền Pháp dự kiến xây dựng cơ sở vật chất cho trường Y Khoa – hạt nhân của trường Đại học Đông Dương sau đó.
Tòa nhà chính của trường Đại học Đông Dương do hai kiến trúc sư Lacollonges và Sabrié thiết kế theo phong cách Tân cổ điện, được khởi công vào năm 1924. Năm 1927, trường được hoàn thành, đặt dấu chấm hết cho sự tồn lưu của kiến trúc cổ điển, đánh dấu cho sự trỗi dậy của nghệ thuật pha trộn giữa phương Tây và phương Đông. Sau đó, tòa nhà cánh phải, nhà ăn, phòng ngủ cho sinh viên và nhiều hạng mục khác cũng lần lượt được xây dựng.
Ngày nay, Đại học Đông Dương vẫn được coi là công trình có giá trị lớn về mĩ thuật và kỹ thuật theo lối kiến trúc hiện đại. Công trình đang được trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Dược Hà Nội quản lý và sử dụng.
Cầu Doumer trước đây, nay là cầu Long Biên không chỉ có chức năng giao thông mà vượt lên đó là biểu tượng của kiệt tác kiến trúc và kết cấu thép. Cầu Long Biên được coi là công trình kết cấu thép đồ sộ nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ nhưng không hề nặng nề, thô cứng mà lại rất uyển chuyển, duyên dáng vắt qua sông Hồng.
Năm 1897, ngay sau khi nhậm chức, Toàn quyền Paul Doumer đã đưa ra ý tưởng xây dựng một cây cầu bắc qua sông Hồng dài 1.600m và vấp phải nhiều ý kiến cho rằng ý tưởng này "điên rồ" và "bất khả thi". Tuy nhiên, vào ngày 12/9/1898 với sự hiện diện của Paul Doumer và các quan chức người Pháp và người Việt.
Vào thời kỳ đó, cầu Long Biên thể hiện một thành tựu về trình độ kỹ thuật và xây dựng cầu với chiều dài 1.682m, thiết kế theo kiểu dầm chìa. Cây cầu khánh thành năm 1902 và được đặt theo tên của cha đẻ ý tưởng xây dựng là cầu Doumer.
Cây cầu do hãng Daydé & Pillé thiết kế và thi công theo đồ án B với tổng kinh phí là 6.200.000 Franc với 30.000m3 đá và 5.300 tấn thép.
Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 đã thu hút sự chú ý lớn từ truyền thông quốc tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trong hợp tác quốc phòng toàn cầu.