Trái với suy nghĩ thường thấy, “điên” lại là chủ đề khá phổ biến trong văn học. Câu chuyện về những người hành động không bình thường này luôn mang đến nguồn cảm hứng cho những nhà văn lớn, từ Sophocle đến Shakespeare, rồi C.Dickens, N.V.Gogol, Tchekhov, W. Faulkner, Stefan Zweig, Lỗ Tấn. Và trong Vu khống của Linda Lê, người điên bị gọi bằng nhiều hỗn danh như Mặt Khỉ, Chệt Khùng theo thói thường ruồng rẫy của xã hội. Khơi dậy niềm cảm thông cho những số phận hắt hiu trong cuộc sống nhiều khi hờ hững mà vẫn toát lên vẻ đẹp của con người chính là điều mà tiểu thuyết 200 trang gợi lên cho người đọc trong một không gian ngột ngạt…
Văn học để giải thoát
Sinh năm 1963 tại Đà Lạt và sang Pháp từ năm 14 tuổi, Linda Lê vẫn thừa nhận rằng “bao giờ tôi cũng cảm thấy mình rất xa lạ đối với Việt Nam, vì tôi học bằng tiếng Pháp, vì thái độ khá rụt rè của tôi”. Như một lẽ tự nhiên, cô đã sớm dùng sách, đặc biệt là các tác phẩm cổ điển của đất nước hình lục lăng, để chạy trốn cảm giác mà cô gọi là “cực kỳ cô đơn”. Và viết văn. “Khi viết, tôi luôn thích tâm trạng như đứng trên một sợi dây căng trên không”. Tác phẩm đầu tay của cô - Một con ma cà rồng rất dịu dàng (1986) được viết bằng giọng văn ảm đạm và độc đáo một cách kỳ dị - giọng văn đã theo cô suốt gần 20 tác phẩm kế tiếp…
Với quá khứ ám ảnh sau lưng, đó là lý do vì sao nhiều tác phẩm của Linda Lê gióng lên đau đáu một nỗi niềm tha hương. Thực tế là văn chương của cô được đánh giá rất cao tại hàng trăm trường đại học, vì đó không chỉ là minh chứng sống động về hậu nữ quyền và hậu thuộc địa, mà còn là cách để trả lời câu hỏi về đời sống ở xứ người. “Tôi hầu như luôn cảm thấy mình đang lưu vong. Cho dù đã sống từ lâu ở Pháp, tôi không bao giờ tự nhủ đây là quê hương mình. Nhưng tôi cũng không tự nhủ Việt Nam là quê hương tôi. Tôi có một tình yêu sâu sắc đối với Pháp ngữ. Đó là bến đậu duy nhất của tôi trong một thực tại mà tôi vẫn thấy rất dữ dội”.
Và như một nhà phê bình đã nói, cô đơn thuần là một người lấy tiếng Pháp để kể lại những nỗi gian truân của những nhân vật mơ hồ, hai mặt, luôn ở giữa dòng, bị xô đẩy chỗ này chỗ khác, quay về với quá khứ nhưng lại lo phải gạt bỏ những mối hiểm nguy của sự hoài niệm…
Hình bóng của người cha
Linda Lê thường nhắc đến cha mình như một nguồn cảm hứng lớn trong văn chương của mình. Năm 1977, khi cô theo mẹ sang Pháp, cha cô ở lại Việt Nam và trong một thời gian dài, Linda Lê thừa nhận có “một vết thương lòng”. Cha cô từng là mẫu người lý tưởng của cô và các chị em luôn nói đùa cô là đệ tử của ông. “Lúc tôi đến Pháp, và viết thư cho ba… Ba tôi hồi âm rằng ông rất tin tôi, rằng ông không biết tôi sẽ làm được gì, nhưng tôi phải thử làm gì đó gây bất ngờ cho ông. Chính ba khích lệ tôi trở thành nhà văn”.
“Cho đến khi mất (1995), ông vẫn là người mà tôi bí mật gửi tặng những quyển sách của mình. Nếu không có ông, nếu không có ý chí mà ông truyền vào các mạch máu của tôi, cũng như sự giáo dục mà ông đã dành cho tôi, thì hẳn tôi đã không khởi sự viết văn. Như vậy với tôi, Việt Nam là quê cha (Tổ quốc) theo đúng nghĩa đen, nghĩa là nơi cha tôi đã sống, đã đau khổ, đã yêu thương và đợi tôi trở về”. Và Thư chết (1999) vọng kính người cha đã mất là một trong những tác phẩm đau thương nhất, mê hoặc nhất của nữ văn sĩ 47 tuổi này.
Vinh Hà