Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam. (Nguồn: Shutterstock) |
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra cho nhiệm kỳ 2021-2026 là khoảng 6,5-7%/năm. Nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội, với sự nỗ lực của cả nước, nền kinh tế Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giành được những kết quả đáng khích lệ.
Điểm sáng trong bức tranh xám màu
Có thể nói, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, nền kinh tế đứng trước rất nhiều khó khăn, có những khó khăn chưa có tiền lệ. Tuy nhiên, chính thời điểm đầy thách thức này đã cho thấy những nỗ lực chung, tinh thần đoàn kết của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Đặc biệt, sự chuyển hướng chiến lược đúng lúc, với sự ra đời kịp thời của Nghị quyết 128, làm xoay chuyển cục diện, cả trong công tác chống dịch và phát triển kinh tế - xã hội. Thận trọng chuyển từ “zero Covid” sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, mở cửa, phục hồi kinh tế, không chỉ cho thấy tính hiệu quả trong điều hành chính sách phát triển kinh tế, mà cả ý nghĩa quan trọng hướng đến con người, lấy con người là trung tâm - chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của phát triển.
Đại dịch Covid-19 kéo dài gây hậu quả nặng nề, biến đổi khí hậu, thiên tai, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine diễn biến phức tạp; hầu hết chuỗi cung ứng bị đứt gãy, hầu hết các ngành, các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng; lạm phát tăng cao, các nước thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất dẫn đến suy giảm tăng trưởng và gia tăng rủi ro trên các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản quốc tế... tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn cầu.
Trong gần ba năm qua, vừa tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp mới phát sinh, vừa xử lý các yếu kém, tồn đọng từ nhiều năm trước... Việt Nam vẫn vững vàng và tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định, “Việt Nam là một điểm sáng trong bức tranh xám màu của kinh tế toàn cầu”, khi vẫn duy trì được động lực tăng trưởng. Nền kinh tế Việt Nam được xếp vào nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và toàn cầu.
Thực tế, năm 2021, tăng trưởng kinh tế đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; Năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với kế hoạch 6-6,5%, là mức tăng cao so với các nước trong khu vực và thế giới; Tăng trưởng GDP trong nửa đầu năm 2023 đạt 3,72%, nhưng theo dự báo, cả năm vẫn có thể đạt từ 6 đến 6,5%.
Xuất khẩu và du lịch trở thành những điểm sáng nhất của “bức tranh kinh tế đa sắc màu”, trong suốt hành trình nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng.
Năm 2022, các dữ liệu về xuất khẩu (kim ngạch, mức xuất siêu, cơ cấu hàng hóa và sự phục hồi thị trường) đều cho thấy khả năng tăng trưởng khả quan. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%; xuất siêu đạt 11,2 tỷ USD; một số ngành hàng về đích sớm so với mục tiêu Chính phủ đặt ra.
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế uy tín đều duy trì, nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam. Moody's nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng "ổn định". S&P nâng từ mức BB lên BB+, triển vọng "ổn định". Fitch duy trì ở mức BB với triển vọng "tích cực". |
Dữ liệu về du lịch năm 2022 liên tục tăng vượt bậc, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phục hồi của ngành kinh tế tiềm năng. Nếu lượng khách quốc tế đạt 3.661.200 lượt, ghi nhận gấp 23,3 lần so với năm trước, năm 2022 còn là năm bùng nổ của du lịch nội địa, khi đạt 101,3 triệu lượt, tăng 168,3% so với kế hoạch, vượt cả mức trước dịch.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 11,2% so với năm trước, phản ánh đà phục hồi mạnh mẽ của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn 143 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Đáng chú ý, đầu tư của một số đối tác lớn như Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc đều tăng lên hàng năm.
Không chỉ gia tăng về số lượng, cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam nỗ lực thích ứng linh hoạt, phản ứng nhanh nhạy với các biến động bất ngờ của môi trường quốc tế và nội địa; nhanh chóng nhập cuộc, nắm bắt cơ hội trong cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, để hoạt động hiệu quả và khai phá những hướng đi mới, xanh, bền vững và có hàm lượng chất xám cao.
Đó là lý do Việt Nam liên tục được quốc tế ghi nhận ở các vị thế mới. Năm 2022, Việt Nam chính thức trở thành nền kinh tế lớn thứ tư của ASEAN và thứ 40 của thế giới, quy mô thương mại quốc tế nằm trong Top 20 toàn cầu, là một trong những nền kinh tế được đánh giá là năng động và có độ mở cao nhất thế giới.
Với đường lối phát triển kinh tế, đường lối ngoại giao sáng suốt, đúng đắn trong một thế giới đầy biến động hiện nay, với kết quả đạt được trong nửa nhiệm kỳ qua đã tạo cơ sở cho niềm tin vào việc kinh tế đất nước sẽ đạt được những mục tiêu của cả giai đoạn 2021-2025 mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra.
Thời khắc chuyển mình đã tới
Tờ Financial Times (Anh) mới đây có bài phân tích nhận định, sau nhiều thập niên hứa hẹn, thời khắc kinh tế Việt Nam chuyển mình đã tới. Việt Nam cần tận dụng sự bùng nổ trong sản xuất, đầu tư vào các lĩnh vực giàu chất xám và năng suất cao để phát triển lâu dài, bền vững.
Năm 2022, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng lên hơn 20 tỷ USD - mức cao nhất trong một thập kỷ. Nhiều tên tuổi hàng đầu thế giới như Dell, Google, Microsoft và Apple chuyển một phần chuỗi cung ứng của họ sang Việt Nam và đang từng bước chuyển đổi mạnh mẽ hơn, như một phần trong chính sách “Trung Quốc +1”. Các doanh nghiệp nước ngoài nắm bắt cơ hội đa dạng hóa chuỗi cung ứng khi chi phí lao động và rủi ro chính trị tại Trung Quốc gia tăng.
Hiện nền kinh tế Việt Nam đang ở thời điểm quyết định. Trong ngắn hạn, để tiếp tục thu hút đầu tư, Việt Nam cần củng cố môi trường kinh doanh. Về lâu dài, để đáp ứng mục tiêu đầy tham vọng là trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045, Chính phủ cần phải tận dụng lợi thế tăng trưởng sản xuất để đa dạng hóa nền kinh tế.
Trong thập kỷ tới, Việt Nam phải nâng cao năng lực sản xuất để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong kế hoạch kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài. Cấu trúc dân số trẻ giúp đem lại nguồn lao động dồi dào, nhưng yêu cầu về tay nghề ngày càng gia tăng. Hệ thống giáo dục của Việt Nam cần cải thiện chất lượng đào tạo nghề và giáo dục đại học.
Việt Nam được tạp chí Mỹ US News & World Report xếp thứ 30 trong bảng xếp hạng các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới 2022, với GDP được ước tính là 363 tỷ USD, GDP bình quân đầu người 11.553 USD. Bảng xếp hạng dựa trên điểm trung bình được tính từ năm yếu tố liên quan đến quyền lực của một quốc gia: sự lãnh đạo, có ảnh hưởng kinh tế, có ảnh hưởng chính trị, liên minh quốc tế và quân đội mạnh... |
Ngoài ra, theo phân tích của Financial Times, Việt Nam cần cắt giảm các quy định, thủ tục và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đặc biệt cần chú ý tới mạng lưới điện đang phải chịu sức ép từ nhu cầu công nghiệp ngày càng tăng.
Mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao không hề dễ dàng. Từ cuối những năm 1990, Malaysia và Thái Lan đã đi trên quỹ đạo tương tự như Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, “bẫy thu nhập trung bình” là một thách thức không dễ vượt qua.
Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển, tiền lương cũng sẽ tăng theo. Việt Nam không thể mãi dựa vào mô hình chi phí thấp. Sự phụ thuộc vào tăng trưởng dựa vào xuất khẩu cũng sẽ khiến Việt Nam dễ bị tổn thương trước môi trường thương mại toàn cầu đầy biến động.
Theo thời gian, Việt Nam cần tái đầu tư để hỗ trợ phát triển các ngành lao động giàu chất xám và năng suất hơn, để đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao. Các dịch vụ xương sống của nền kinh tế như tài chính, hậu cần và dịch vụ pháp lý tạo ra việc làm có tay nghề cao và gia tăng giá trị cho các ngành hiện có.
Ngân hàng Thế giới (WB) khuyến nghị Việt Nam hỗ trợ nhiều hơn cho việc áp dụng công nghệ, tăng cường kỹ năng quản lý và tiếp tục giảm thiểu các rào cản đối với FDI trong lĩnh vực dịch vụ.
Thật dễ hiểu về tâm trạng phấn khích của các nhà đầu tư tại Việt Nam. Nhưng Việt Nam còn nhiều việc phải làm để biến xu hướng “giảm thiểu rủi ro” ngày nay, thành sự thịnh vượng lâu dài.
Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050:- Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7%/năm giai đoạn 2021-2030. - Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD. - Đến năm 2050, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Hệ thống đô thị thông minh, hiện đại, giàu bản sắc và xanh. |