Chiến lược lớn
Cách đây gần 30 năm, Việt Nam là một trong những nước nghèo và bị cô lập trên thế giới nhưng có một lực lượng quân đội đông thứ năm toàn cầu, dù sức mạnh quân sự phụ thuộc khá nhiều vào viện trợ của Liên Xô. Trong bối cảnh ấy, một chiến lược lớn đã ra đời nhằm nâng cao và cân bằng các sức mạnh kinh tế, quân sự và ngoại giao của Việt Nam. Xin tạm gọi chiến lược lớn này là “phát triển và hội nhập”.
Chiến lược lớn - mà cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch là kiến trúc sư trưởng - đã vạch ra con đường cho Việt Nam tới tận ngày nay, với bộ phận quan trọng là chính sách “đa dạng hoá, đa phương hoá”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị năm 1988 là một dấu mốc quan trọng của chiến lược này, với tinh thần là trong vòng 25 năm, sẽ tạo cho Việt Nam một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng đủ mạnh và một nền ngoại giao rộng mở.
Giáo sư, Tiến sĩ Alex Vuving trong một buổi trao đổi về Hợp tác an ninh hàng hải. (Nguồn: apcss.org) |
Tuy nhiên, việc triển khai chiến lược lớn này không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Phải đến Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) năm 2003, tinh thần của Nghị quyết 13 mới được phát huy đầy đủ. Nghị quyết 8 đã mở rộng cánh cửa cho Việt Nam tăng cường sức mạnh trên các mặt kinh tế, quân sự và ngoại giao.
Tiếc rằng trong 10 năm qua, kinh tế Việt Nam chưa chuyển đổi được mô hình phát triển, khiến nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sức mạnh quân sự và cả vị thế ngoại giao. Tuy nhiên,thập kỷ qua lại là thời kỳ Việt Nam có nhiều bước tiến dài trên mặt ngoại giao, thể hiện một vai trò nổi bật hơn trong khu vực.
Tối ưu đối ngoại song và đa phương
Xu hướng của những năm gần đây ở Việt Nam là ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển. Việt Nam coi trọng cả quan hệ song phương và đa phương.
Việt Nam ngày càng đóng vai trò tích cực trên các diễn đàn quốc tế, đặc biệt là các cơ chế hợp tác và đối thoại đa phương trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam là một trong số rất ít nước châu Á có quan hệ đối tác chiến lược hoặc toàn diện với cả 5 cường quốc (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ).
Những năm gần đây, Việt Nam ký kết khá nhiều hiệp định thương mại tự do, đồng thời thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với một loạt nước từ châu Á đến châu Âu. Có thể nói quan hệ đối ngoại song phương và đa phương của Việt Nam được phát triển theo hướng “cân bằng và mở rộng”.
Trong thời gian tới, Việt Nam nên hướng phát triển theo chiều sâu với các đối tác ưu tiên, tăng cường quan hệ với một số đối tác có nhiều tiềm năng và mở hướng hợp tác ba bên và bốn bên với một số đối tác trọng điểm.
Cần giành lợi thế thực địa
Vấn đề tranh chấp chủ quyền, đặc biệt ở Biển Đông, là một vấn đề nan giải không chỉ với Việt Nam mà cả với thế giới.
Giáo sư, Tiến sĩ Alexander L. Vuving làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á – Thái Bình Dương Daniel K. Inouye từ tháng 7/2008 đến nay. Trước đó, ông giảng dạy về quan hệ quốc tế, an ninh quốc tế và quan hệ đối ngoại của Trung Quốc tại Đại học Tulane. Ông từng công tác và nghiên cứu tại Trung tâm khoa học và các vấn đề quốc tế Belfer thuộc Đại học Harvard (Mỹ) và Trường Nghiên cứu Quốc tế Rajaratnam (Singapore). GS. TS. Vuving có nhiều năm sống tại Việt Nam, Hungary, Pháp, và Đức trong những giai đoạn nhiều thay đổi, như các cuộc chiến tranh ở Đông Dương và quá trình thống nhất châu Âu. Những sự kiện này đã giúp định hình chuyên môn của ông. GS. TS. Vuving có nhiều bài nghiên cứu tại các tạp chí khoa học lớn và diễn thuyết tại các trường đại học hàng đầu thế giới. |
Cách tiếp cận của Việt Nam trong chiến lược bảo vệ chủ quyền là sự kết hợp của ba yếu tố. Thứ nhất là xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng đủ sức răn đe và phòng thủ tối thiểu. Thứ hai là cố gắng giữ hoà khí và các kênh đối thoại với Trung Quốc. Thứ ba là tranh thủ và thúc đẩy sự ủng hộ và trợ giúp của quốc tế. Về cơ bản, đối sách này là phù hợp với thực tế.
Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào ba định hướng như vậy sẽ không đủ khả năng chống chọi với những thách thức ngày càng lớn. Thực tế căng thẳng trên Biển Đông vẫn tiếp tục gia tăng, trong khi lợi thế của Việt Nam trên thực địa đang ngày càng bị xói mòn.
Để cải thiện tình hình, Việt Nam cần tích cực và sáng tạo hơn để giành lại lợi thế trên thực địa. Cần giảm mạnh sự ràng buộc và phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và tâm lý. Việt Nam cũng cần xúc tiến các hướng hợp tác song phương và đa phương với các nước có chung mục tiêu ở Biển Đông nhằm thiết lập cân bằng lực lượng có lợi cho Việt Nam. Việt Nam cần phát huy vai trò tích cực trong xây dựng cấu trúc an ninh mới đủ sức ngăn chặn các hành động vi phạm luật pháp quốc tế trong khu vực.
Tăng cường hiểu biết lẫn nhau
Có thể nói, trong quan hệ Việt – Mỹ, do lịch sử hai nước và vị trí địa chính trị của Việt Nam, quan hệ Việt-Mỹ bao giờ cũng có phần đặc biệt. Cho nên khi quá trình bình thường hoá quan hệ hoàn tất, với việc Mỹ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí, mối quan hệ hai nước đã mang một sắc thái chiến lược quan trọng.
Một điểm đặc biệt nữa là phải hơn 20 năm sau chiến tranh, Việt Nam và Mỹ mới tái lập quan hệ ngoại giao, và phải thêm 20 năm nữa, quan hệ hai nước mới hoàn toàn bình thường hoá. Rào cản lớn nhất trong quá trình bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ là tâm lý và ý thức hệ. Những người làm đối ngoại đã nỗ lực rất nhiều để vượt qua các rào cản đó.
Quan hệ Việt-Mỹ có rất nhiều triển vọng tốt đẹp trong tương lai. Hai nước có sự tương đồng lớn về mục tiêu và lợi ích chiến lược trong khu vực. Vị trí địa lý và tiềm năng kinh tế, quân sự và ngoại giao của Việt Nam khiến Việt Nam trở thành một ưu tiên trong chính sách châu Á của Mỹ.
Để phát huy hết tiềm năng hợp tác, cần tăng cường tiếp xúc, trao đổi, tìm hiểu, đối thoại ở cấp cao cũng như các cấp thấp hơn, qua đó nâng cao hiểu biết và tin cậy chính trị giữa hai nước. Muốn hợp tác với Mỹ một cách hiệu quả, Việt Nam cần hiểu Mỹ, hiểu lợi ích, cách nghĩ, cách làm của Mỹ, sự vận hành hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội Mỹ. Bên cạnh đó, Việt Nam cần nỗ lực thông tin để nhiều người Việt Nam hiểu và biết Mỹ hơn.
Ấn tượng và hy vọng
Tôi rời Việt Nam đi du học vào năm 1986, khi đất nước đang ở trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là sự chuyển hướng chiến lược vào thời kỳ 1986-1988, với phong trào đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy đối ngoại. Đã có những con người tâm huyết, dũng cảm và trí tuệ làm nên bước ngoặt đó.
Hiện nay, Việt Nam cũng đang ở một khúc quanh của lịch sử, rất cần một cuộc đổi mới tư duy, kể cả tư duy đối ngoại. Là một người gốc Việt, tôi rất mong lại có những con người tâm huyết, dũng cảm, trí tuệ đưa con thuyền Việt Nam vượt thác ghềnh, ra biển lớn.