Nhiều quốc gia thuộc khu vực châu Á đang phải 'vật lộn' với các làn sóng Covid-19 mới. (Nguồn: Shutterstock) |
Theo bà Victoria Kwakwa, đầu tiên khu vực châu Á nên mở rộng hợp tác để sản xuất và triển khai vaccine trong bối cảnh cần nguồn cung cấp vaccine lớn hơn. Một số quốc gia như Indonesia, Thái Lan và Việt Nam hiện đều đang xem xét việc mở rộng năng lực sản xuất vaccine.
Khi các quốc gia tăng cường hợp tác sẽ giúp nguồn cung và cầu khớp nhau, nhắm mục tiêu đến nơi có nhu cầu cao nhất. Bên cạnh vaccine, việc hợp tác này có thể mở rộng đến các nguồn cung cấp thiết yếu khác như thiết bị bảo hộ cá nhân, khẩu trang, dụng cụ xét nghiệm...
Bà Kwakwa cho rằng, các nỗ lực ở cấp quốc gia cũng có thể được thực hiện để mở rộng kiến thức, chia sẻ thông tin, tập trung vào các phương pháp hay nhất để ngăn chặn, kiểm tra và truy vết nguồn lây. Những nỗ lực đó có thể được xây dựng dựa trên các cơ chế khu vực hiện có, chẳng hạn như Khuôn khổ Phục hồi Toàn diện của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Quyết tâm nỗ lực chấm dứt đại dịch càng nhân rộng thì toàn bộ khu vực có thể mở cửa trở lại càng nhanh chóng.
Thứ hai, các nước châu Á cần chung tay hợp tác phục hồi nền kinh tế. Kể từ đầu năm 2020, nghèo đói đã tăng vọt ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương khi rất nhiều các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là du lịch phải đóng cửa. Các chính phủ đã tăng cường kích thích tài khóa, các chương trình bảo trợ xã hội... nhưng những nỗ lực này dường như chưa đạt được hiệu quả khi các nền kinh tế tiếp tục phải vật lộn để đối phó với những đợt lây nhiễm mới.
Nếu các quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu có thể phối hợp tốt hơn trong các chính sách tài khóa và tiền tệ thì kết quả của nỗ lực sẽ lớn hơn so với việc thực hiện riêng lẻ. Thêm vào đó, các quốc gia sẽ sẵn sàng làm nhiều hơn khi được các nước láng giềng chia sẻ gánh nặng.
Khi dịch Covid-19 lắng xuống, các quốc gia có thể xem xét mở lại ngành du lịch, kết hợp với các yêu cầu về tiêm chủng và xét nghiệm để hồi sinh ngành du lịch và khách sạn. Những nền kinh tế đang đối mặt với tình trạng thiếu lao động có thể nhập khẩu lao động từ các nước láng giềng. Đồng thời, cải thiện các điều kiện về sức khỏe và an toàn để tránh nguy cơ bùng phát, lây lan của dịch bệnh.
Tuy nhiên, bà Kwakwa lưu ý, quá trình phục hồi của châu Á sẽ phụ thuộc một phần vào sự hồi sinh của các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Trong khi đầu tư công giảm nhẹ, sự tham gia của khu vực tư nhân vào các dự án cơ sở hạ tầng cũng cần được tăng cường.
"Trong tương lai, các quốc gia sẽ cần sự cam kết mạnh mẽ từ cả khu vực nhà nước và tư nhân để mở rộng cơ sở hạ tầng bền vững. Các quốc gia châu Á cũng đang thúc đẩy xu hướng này nhằm khai thác các nguồn vốn tư nhân và tìm kiếm cơ hội đầu tư cơ sở hạ tầng xanh với lợi nhuận hợp lý và an toàn. Đồng thời, việc kết hợp giữa khu vực tư nhân và nhà nước sẽ cải thiện kết nối khu vực, hậu cần để giảm chi phí chuỗi cung ứng và nâng cao hiệu quả kinh tế", bà Kwakwa cho hay.
Cũng theo bà Kwakwa, ngoài cơ sở hạ tầng cứng, châu Á còn có tiềm năng to lớn để mở rộng các giải pháp dựa trên thiên nhiên như kêu gọi bảo vệ, quản lý bền vững, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên và bị suy thoái (rừng, rừng ngập mặn và đất ngập nước), giúp mang lại lợi ích về khí hậu, phúc lợi cho con người và đa dạng sinh học.
Thứ ba, châu Á cần đẩy mạnh hội nhập khu vực sâu sắc hơn. Nghiên cứu của WB cho thấy, việc hội nhập chặt chẽ vào chuỗi giá trị toàn cầu đã làm giảm tính dễ bị tổn thương của các nền kinh tế Đông Á trong đại dịch.
Bà Victoria Kwakwa cho rằng, nếu các quốc gia có thể cùng nhau hợp tác cung cấp, phân phối vaccine và các vật tư y tế quan trọng khác, đồng thời đẩy mạnh các biện pháp phục hồi nền kinh tế, các chính sách hội nhập sâu rộng trong khu vực, thì niềm tin quốc tế từng mất đi do đại dịch có thể được khôi phục.
"Cuộc sống sẽ an toàn hơn và sinh kế sẽ được đảm bảo. Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương có thể duy trì vị trí xứng đáng của mình như một trong những khu vực năng động, sáng tạo và kết nối nhất thế giới", bà Kwakwa nhấn mạnh.