Những người rà phá bom mìn tại Quảng Trị. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Ngày 8/4, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ), Việt Nam sẽ tổ chức Phiên họp cấp Bộ trưởng trực tuyến về chủ đề “Khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững: Tăng cường gắn kết để hành động hiệu quả hơn”.
Đây là một sự kiện nhân văn và ý nghĩa gắn với Ngày Quốc tế Nhận thức Bom mìn và Hỗ trợ Hành động Bom mìn 4/4 được LHQ tổ chức hằng năm.
Kẻ giết người thầm lặng
Bom mìn, bom đạn chùm đã được sử dụng với quy mô lớn trong hai cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh, xung đột ở nhiều quốc gia, khu vực. Hiện nay, thứ vũ khí này vẫn tiếp tục được sử dụng dù với quy mô nhỏ, khối lượng ít hơn, song để lại nhiều hậu quả nặng nề, lâu dài về con người, an ninh, kinh tế và xã hội.
Việt Nam là một quốc gia chịu hậu quả nặng nề với hàng trăm nghìn tấn bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Ước tính từ năm 1964 đến 1975, Việt Nam đã hứng chịu hơn 16 triệu tấn bom đạn các loại, gấp 4 lần số lượng bom đạn đã được sử dụng trong Thế chiến I.
Theo kết quả điều tra của Trung tâm Hành động bom mìn quốc gia Việt Nam (VNMAC) công bố ngày 3/4/2018, số lượng bom đạn đã sử dụng còn sót lại sau chiến tranh tại Việt Nam lên tới hàng trăm ngàn tấn, gồm các loại bom, mìn, vật nổ rải rác tại toàn bộ 63/63 tỉnh, thành trên toàn quốc, bao gồm 9.116 xã còn bị ô nhiễm bom, mìn ở các mức độ khác nhau, chiếm 81,87% tổng số xã trên toàn quốc. Tổng diện tích đất hiện còn bị ô nhiễm bom mìn tính đến tháng 12/2017 là trên 6,1 triệu hecta, chiếm 18,71% diện tích đất cả nước. |
Dù Việt Nam đã trải qua nhiều thập kỷ hòa bình, nhưng nguy cơ tai nạn do bom mìn vẫn hiện hữu ở khắp mọi nơi, đe dọa an toàn của người dân cũng như cản trở các nỗ lực phát triển kinh tế, xã hội.
Được ví như “kẻ giết người thầm lặng”, hiện có hơn 60 quốc gia trên thế giới vẫn đang phải đối mặt với các thách thức nghiêm trọng do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Mỗi năm, có khoảng 15.000 người trên thế giới bị thương hoặc chết do tai nạn từ bom mìn sót lại.
Bên cạnh đó, bom mìn, vật nổ còn sót lại là nguồn vũ khí dễ bị các lực lượng vũ trang khai thác, gây mất ổn định, khiến xung đột có thể tái phát; cản trở các hoạt động cứu trợ nhân đạo, gìn giữ hòa bình, tái thiết hậu xung đột và phát triển kinh tế, xã hội lâu dài.
Vì vậy, khắc phục hậu quả bom mìn, nhất là trong môi trường hậu xung đột, là một chủ đề ưu tiên của Việt Nam khi đảm nhiệm cương vị Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nói chung và trong tháng Chủ tịch HĐBA LHQ nói riêng.
Việt Nam nỗ lực cùng cộng đồng quốc tế
Chương trình phát triển bền vững đến năm 2030 của LHQ coi khắc phục hậu quả bom mìn và hậu quả chiến tranh là mục tiêu lớn của cả thế giới.
Với thực trạng ô nhiễm bom mìn hiện nay, Việt Nam cần hàng trăm năm để làm sạch hoàn toàn bom mìn.
Mong muốn trở thành quốc gia không còn tác động của bom mìn, Việt Nam đã nỗ lực nâng cao năng lực, huy động nhiều nguồn lực tăng tốc độ rà phá nhằm giải quyết cơ bản hậu quả bom mìn sau chiến tranh. Khắc phục hậu quả bom mìn là nhiệm vụ của Chính phủ cũng như trăn trở của hàng triệu người dân Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Việt Nam đã ký Công ước cấm hoặc hạn chế sử dụng một số loại vũ khí thông thường có thể gây sát thương quá mức hoặc có tác động không phân biệt (CCW).
Việc cấm, hạn chế sử dụng bom mìn được điều chỉnh bởi luật nhân đạo quốc tế, bao gồm các Công ước Geneva năm 1949, và các điều ước quốc tế chính gồm có: Công ước cấm mìn sát thương (APMBC), Công ước cấm bom đạn chùm (CCM) và Công ước cấm hoặc hạn chế sử dụng một số loại vũ khí thông thường có thể gây sát thương quá mức hoặc có tác động không phân biệt (CCW). |
Đồng thời, Việt Nam cũng tích cực tham dự các hội nghị, hội thảo liên quan đến mìn sát thương, bom đạn chùm, bao gồm một số Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước cấm mìn sát thương (APMBC), Công ước cấm bom đạn chùm (CCM) và CCW với tư cách quan sát viên, để thể hiện vai trò thành viên có trách nhiệm, kết hợp nắm tình hình, tuyên truyền về thực trạng ô nhiễm bom mìn ở Việt Nam và các nỗ lực, kết quả đã đạt được, vận động tài trợ các nước, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ phục vụ công tác khắc phục hậu quả bom mìn ở Việt Nam.
Trong nước, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh giai đoạn đến năm 2025 (4/2010); Nghị định số 18/2019/NĐ-CP về Quản lý hoạt động khắc phục hậu quả bom mìn (02/2019); Trung tâm Hành động bom mìn quốc gia Việt Nam (VNMAC) đã công bố “Báo cáo hiện trạng tồn lưu bom mìn, vật nổ sau chiến tranh ở Việt Nam - Giai đoạn 1”, Bản đồ ô nhiễm bom mìn, vật nổ trên đất liền theo các kết quả điều tra của các tỉnh từ 2020-2013 (4/2018).
Ngoài ra, Việt Nam cũng tăng cường các hoạt động quảng bá, tuyên truyền cho các nỗ lực khắc phục hậu quả bom mìn của Việt Nam, như việc Ban Chỉ đạo 701 đã chủ trì tổ chức 2 hội thảo quốc tế về chủ đề Hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam tại New York và Washington DC (tháng 3/2019), Bộ Ngoại giao chủ trì tổ chức Triển lãm “Phụ nữ Việt Nam chung tay vì sự an toàn trên những miền đất Việt” bên lề Hội nghị quốc tế về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh (Hà Nội, 7-9/12/2020).
Trên cương vị Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ, thời gian qua, Việt Nam đã đề cao vai trò của khắc phục hậu quả bom mìn trong tái thiết hậu xung đột trong các phát biểu, đề xuất đưa một số nội dung phù hợp về khắc phục hậu quả bom mìn trên cơ sở Nghị quyết 2365 vào một số văn kiện mới liên quan của HĐBA (như Nghị quyết 2540 trong năm 2020 về gia hạn phái bộ LHQ tại Somalia).
Có thể nói, Việt Nam đã và đang nhân đôi nỗ lực ở trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy khắc phục hậu quả bom mìn, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an toàn cho người dân, đồng thời giúp đỡ nạn nhân bom mìn hòa nhập đời sống xã hội.
Triển lãm “Phụ nữ Việt Nam chung tay vì sự an toàn trên những miền đất Việt” bên lề Hội nghị quốc tế về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh (Hà Nội, 7-9/12/2020). (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Hình mẫu vươn lên từ chiến tranh
Rõ ràng, việc khắc phục hậu quả bom mìn không chỉ là vấn đề của riêng một quốc gia mà đòi hỏi sự nỗ lực quốc gia và hợp tác quốc tế.
Đại sứ Đặng Đình Quý, Trưởng phái đoàn Thường trực Việt Nam tại LHQ cho biết, Phiên họp ngày 8/4 là một cuộc thảo luận mở về bom mìn để nói về những thách thức hiện tại của bom mìn, để chia sẻ những kinh nghiệm của các nước, các khu vực trong giải quyết các vấn đề bom mìn, đồng thời đề ra những biện pháp mới để cộng đồng quốc tế đối phó tốt hơn với vấn đề bom mìn.
Theo Đại sứ Đặng Đình Quý, Việt Nam được LHQ nhắc đến nhiều lần là “hình mẫu của các nước đang phát triển, các nước vươn lên từ đói nghèo, từ đổ nát chiến tranh”. Bởi vậy, hơn ai hết, Việt Nam là minh chứng sống động nhất cho chủ đề khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững.
Một mặt, đây là vấn đề quan trọng với Việt Nam, có những tác động sâu sắc với phát triển kinh tế, xã hội cũng như bảo đảm an ninh, an toàn của người dân Việt Nam.
Mặt khác, việc Việt Nam tham gia tích cực và có sáng kiến cụ thể trong vấn đề này sẽ thể hiện vai trò, đóng góp trên một lĩnh vực mà nhiều nước quan tâm và có lợi ích, tạo dấu ấn trong nhiệm kỳ HĐBA 2020-2021.
Bên cạnh đó, chủ đề này cũng thể hiện tính nhân văn và đề cao khía cạnh nhân đạo trong việc giải quyết hậu quả bom mìn, nâng cao nhận thức chung, thu hút nhiều hơn sự chú ý của cộng đồng quốc tế đến công tác khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam, qua đó tranh thủ hỗ trợ quốc tế cho Việt Nam cũng như các nước chịu ảnh hưởng.
Thông qua chủ đề này, Việt Nam bày tỏ mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm quốc gia và đóng góp cho các nỗ lực quốc tế, xứng đáng là hình mẫu vươn lên cho các nước đang phát triển, các nước vươn lên từ đói nghèo, từ đổ nát chiến tranh.