GS. TS. Phạm Tất Dong nêu quan điểm, phải đào tạo những thế hệ thích nghi với biến đổi. |
Kinh tế tri thức yêu cầu về một nền giáo dục mở
Ông đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của một nền giáo dục mở?
Tiến trình vào thế kỷ XXI cần thấy rõ, tri thức do nhà trường cung cấp chỉ là vốn ban đầu; cái vốn đó không đủ dùng trong suốt cuộc đời. Tri thức sau trung học cộng với tri thức có được do học tập suốt đời mới là tri thức mà sự phát triển nền kinh tế tri thức đòi hỏi ở mỗi công dân. Chính vì vậy, cần thiết phải có nền giáo dục mở.
Theo tôi, giáo dục mở sẽ tạo ra một hệ tài nguyên giáo dục mở số hóa, đa dạng, đa lĩnh vực tri thức, không có rào cản khi cần truy cập. Từ đó, sẽ giúp cho mọi người tiếp cận với những học liệu mình đang có nhu cầu sử dụng. Nhờ đó, số người học tập qua tài nguyên giáo dục mở sẽ không hạn chế.
Trong hệ thống giáo dục mở, các trường đại học mở là lực lượng nòng cốt, mở ra các khóa học trực tuyến. Nhờ thiết bị di động thông minh, mỗi khóa học có thể phục vụ cùng một lúc cho nhiều người.
Đại học mở trên thế giới thường không xét trình độ đầu vào. Ai cần học vấn đại học đều có thể được cung ứng tri thức. Vấn đề là, người học sẽ học theo cách nào để thỏa mãn nhu cầu tri thức của mình, còn muốn có văn bằng tốt nghiệp thì việc tích lũy đủ tri thức do trường quyết định.
Theo tôi, các trường dạy nghề, trường chuyên nghiệp và đại học mở sẽ tạo ra những điều kiện học tập suốt đời cho mọi người theo hướng phổ cập các dịch vụ học tập, cá nhân hóa việc học tập, góp phần xây dựng đội ngũ lao động chất lượng cao như một khâu đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Công việc hằng ngày của con người luôn thay đổi, đòi hỏi việc cập nhật kiến thức thường xuyên ra sao, theo ông?
Đúng vậy, trong thế giới hiện đại, công việc hằng ngày của con người luôn thay đổi và đòi hỏi cập nhật kiến thức không ngừng. Tức là, phải học kịp thời, cần những điều thiết thực nhất nên phải cập nhật thường xuyên, học để phục vụ cho công việc.
Giáo dục mở là không rào cản với người học. Nếu người ta không có điều kiện theo các lớp học thì có thể học trực tuyến, có thể học bất cứ lúc nào, theo nội dung nào đó, học ở nhà, học buổi tối… Giáo dục mở nói chung mở mọi khía cạnh cho người học và ngày càng rẻ tiền.
Nếu không học, không cập nhật kiến thức liên tục, con người sẽ bị trí tuệ nhân tạo, công nghệ cao loại trừ. Do vậy, chúng ta phải học liên tục, phải tiến tới có một năng lực thích ứng, phải sáng tạo và luôn trong tư thế chủ động khi đứng trước những vấn đề khó lường.
Chuẩn bị gì để sống trong thế giới VUCA?
Vậy theo ông, giáo dục cần chuẩn bị gì cho con người để có thể sống trong thế giới đầy biến động, khó lường?
Có thể nói, thế giới đang ở một giai đoạn phức tạp, biến đổi liên tục, khó lường, nhiều hiện tượng diễn ra rất mơ hồ, không rõ ràng, không biết nó sẽ kết thúc như thế nào, cần ứng xử với nó ra sao... Nhiều lĩnh vực sản xuất phát triển như vũ bão, nhiều khó khăn và nguy cơ mất việc làm mà con người phải đối mặt.
Trong thế giới hiện đại, những biến cố, sự kiện diễn ra thường mang tính toàn cầu mà sự đối mặt của con người là vô cùng phức tạp. Do vậy, phải phát triển công nghệ mới, đặc biệt, phải đào tạo những thế hệ thích nghi với biến đổi. Nền giáo dục cần tính đến điều kiện thích ứng với thế giới VUCA để có một chương trình đào tạo thích hợp.
Sự bùng nổ của công nghệ ảnh hưởng thế nào đến năng lực kết nội toàn cầu của giới trẻ hiện nay dưới góc nhìn của ông?
Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới đầy biến động, thay đổi khó lường, nhiều lĩnh vực sản xuất phát triển vũ bão, nhiều khó khăn và nguy cơ mà con người phải đối mặt. Thế giới VUCA (VUCA World) là tên gọi về một thế giới biến động (Volatility), bất định (Uncertainty), phức tạp (Complexity) và mơ hồ (Ambiquity).
Nhiều chuyên gia đã kiến nghị với Chính phủ về những kỹ năng cần thiết phải đưa vào chương trình giáo dục ở các cấp học. Theo đó, cần tập trung vào việc hình thành và phát triển những kỹ năng như hợp tác, giao tiếp, phản biện, sáng tạo và học tập suốt đời.
Trẻ phải học theo một cách khác, không thể học theo kiểu cứng nhắc, theo một chương trình khô cứng, dạy học theo khuôn mẫu. Chúng ta phải tương tác nhiều hơn, biết hợp tác nhiều hơn để giải quyết công việc. Nếu không dạy trẻ cách hợp tác theo nhóm, không dạy những tri thức cần thiết để ứng xử với máy thì sẽ… hỏng.
Cho nên, người ta mới nói, thế giới VUCA liên tục xuất hiện, Covid-19 hay sự xuất hiện của ChatGPT cũng làm cho thế giới thay đổi. Chính vì vậy, con người phải tiến tới phải có năng lực thích ứng với hoàn cảnh phức tạp. Để sống với thế giới này, phải có một số yếu tố cơ bản như sáng tạo, có kiến thức để ứng phó trước các vấn đề.
Theo truyền thống, thường thì ban ngày trẻ lên lớp nghe giảng. Còn lớp đảo ngược thì buổi tối thầy cô giao bài, các em tự học; hôm sau lên lớp các em sẽ cùng thầy cô giáo giải quyết những vấn đề, công việc cụ thể.
Cũng có nhiều cách học như học theo đề án, nhiều học sinh cùng giải quyết một công việc, hoặc làm ra sản phẩm có thể bán được, có thể được phổ biến… nhưng để thích ứng với thế giới VUCA thì học trực tuyến vẫn là quan trọng nhất.
Ở Việt Nam, cái khó thứ nhất khi học trực tuyến là về máy móc, thứ hai là trình độ người dạy. Bởi không phải học sinh nào cũng có máy tính để học, hay không có điện thoại thông minh để kết nối với dữ liệu.
Về người dạy, khi thầy cô dạy trên lớp, cầm viên phấn nói khác với dạy trực tuyến. Dạy trực tuyến là phải chuẩn bị bài giảng khác đi, tương tác nhiều hơn, hình ảnh nhiều hơn, những vấn đề đặt ra đòi hỏi về suy nghĩ nhiều hơn, tức là luôn trả lời những vấn đề đặt ra.
Học trực tuyến đặt ra yêu cầu trò chơi, hình ảnh và yêu cầu tương tác cho sống động. Thế nên, đi vào thế giới VUCA, nhà trường phải khác, không thể giống nhà trường cũ.
Nhiều nhà khoa học coi thế hệ Alpha là những người có tố chất kỹ thuật số “bẩm sinh”. Họ gọi thế hệ này bằng nhiều tên khác nhau như “Thế hệ kính”, “Thế hệ màn hình”, “Thế hệ Internet”… (Ảnh: Thu Phương) |
Cần sự quan tâm đúng mức của hệ thống giáo dục
Trong thế giới VUCA ấy, vấn đề đặt ra ở đây là gì? Thế hệ học sinh hiện nay có gặp khó?
Gen Z là thế hệ sinh ra trong giai đoạn 1997- 2012. Đó là thế hệ về mặt năng lực lẫn tính cách khác xa thế hệ cũ. Các em học ngoại ngữ nhanh hơn thế hệ cha anh, có năng lực học trực tuyến, có tư duy phản biện sắc sảo, có năng lực sử dụng công nghệ thông tin vượt trội. Thế nên, khi bắt tay vào công việc, thế hệ Z năng động hơn, hiệu quả hơn thông qua việc áp dụng công nghệ.
Người ta gọi thế hệ Z là “Thế hệ công nghệ”, “Thế hệ mạng”, “Thế hệ kỹ thuật số”. Thế hệ này đang trải nghiệm thế giới VUCA. Họ cần nền giáo dục tạo mọi cơ hội và điều kiện để họ có thể trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thế hệ Z càng ngày càng hướng tới mô hình công dân toàn cầu, tức là công dân có nhiều quốc tịch, có thể làm việc ở nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, giáo dục ngày nay vẫn có nhiều rào cản khiến không ít thành viên của thế hệ Z chưa tiếp cận được với thành quả của văn hóa và công nghệ hiện đại.
Trong khi đó, thế hệ Alpha sinh ra trong giai đoạn 2013-2028. Từ khi sinh ra, thế hệ Alpha đã được sống trong thế giới công nghệ hiện đại, được đắm mình trong môi trường số. Thế nên, trẻ sinh trong giai đoạn này hầu như có một năng lực sống với thế giới màn hình. Nói đúng hơn, thế giới màn hình với thế hệ này giống như cô bảo mẫu.
Nhiều nhà khoa học coi thế hệ Alpha là những người có tố chất kỹ thuật số “bẩm sinh”. Họ gọi thế hệ này bằng nhiều tên khác nhau như “Thế hệ kính”, “Thế hệ màn hình”, “Thế hệ Internet”…
Các cháu ở lứa tuổi này không bị rào cản về văn hóa, tức là chấp nhận văn hóa của người khác với mình. Thế hệ này sẽ ra nước ngoài nhiều hơn, sống trong “ngôi nhà” toàn cầu nhiều hơn, có khái niệm biên giới rộng hơn.
Nói đúng hơn, sự bùng nổ của các công nghệ cao sẽ làm cho Alpha trở thành thế hệ có năng lực kết nối toàn cầu. Trẻ em thuộc thế hệ này sẽ học tập, làm việc, đi du lịch giữa các quốc gia mà không gặp rào cản nào về ngôn ngữ và văn hóa.
Đặc biệt, theo nhiều tài liệu, rồi đây, thế hệ Alpha sẽ định nghĩa lại khái niệm “việc làm”, thay đổi các mô hình trường học và mô hình giáo dục. Học tập suốt đời sẽ là lẽ sống đối với thế hệ này. Có thể, nhờ kết nối toàn cầu, thế hệ Alpha sẽ làm mờ dần ranh giới địa lý, văn hóa, ngôn ngữ truyền thống của quốc gia.
Thế hệ Gen Z đang trải nghiệm thế giới VUCA. Ông đánh giá thế nào về những rào cản mà họ gặp phải hiện nay?
Chúng ta thường nhìn thế hệ trẻ bằng con mắt tĩnh, trong khi nó đã thay đổi rất nhiều. Rào cản hiện nay là nhận thức của người lớn về thế hệ này.
Có thể nói, so với thế hệ trước, các em có một gia tốc phát triển mạnh hơn, tức là sự phát triển về mặt tâm lý, tri thức khác với cha anh. Như vậy, cứ độ 10, 15 năm sẽ có một thế hệ có gia tốc phát triển khác hẳn về mặt tâm lý, thể chất.
Những vấn đề cốt lõi cần thay đổi là gì dưới góc nhìn của ông? Các em cần nền giáo dục như thế nào để trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao?
Theo tôi, đào tạo học sinh, sinh viên phải gắn liền với lao động. Dù ở nhà hay trên lớp, dường như các em ít khi tham gia trực tiếp vào lao động do thời gian dành nhiều cho học tập. Đó là điều đáng tiếc. Quá trình lao động không chỉ giúp cho các em hình thành năng lực quản lý thời gian, tài chính mà còn sớm nhận thức được giá trị của mình.
Thực tế, khi đi xin việc, các doanh nghiệp sẽ đòi hỏi ở người trẻ trình độ nhận thức và khả năng làm việc cao hơn. Vậy nên, các em cần một chương trình giáo dục không nặng nề về lý thuyết, được thực hành nhiều hơn. Từ đó, sẽ giúp em có kỹ năng, thích ứng được với sự đổi thay của thế giới.
Do vậy, giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 cần chuẩn bị cho các em nhỏ Alpha theo hướng công dân toàn cầu. Muốn vậy, cần tránh lối học nhồi nhét những kiến thức không cần thiết cho tương lai của các em hay tránh việc học chỉ để thi, học để có tấm bằng.
Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!