Tù binh thương trường kể về sự kiện doanh nhân Nguyễn Phước Bửu Huy (tên thường gọi là Bửu Huy) bị Interpol Bỉ bắt khi tham dự Hội chợ Thủy sản châu Âu tại Brussels, Vương quốc Bỉ.
Nguyên nhân sâu xa xuất phát từ sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cá tra, cá basa Việt Nam và các doanh nghiệp nuôi và kinh doanh cá nheo (catfish) Mỹ, dẫn đến cuộc chiến thương mại giữa hai bên.
Cuộc chiến này đến nay vẫn chưa chấm dứt và gây ra nhiều cản trở, khó khăn cho việc mở rộng thị trường cá tra tại Mỹ.
Tại sao lại khơi lại vụ án sau 17 năm?
Bửu Huy được cho là một trong những người thuộc thế hệ tiên phong, góp phần mở đường đưa sản phẩm cá basa, cá tra từ loài cá bản địa vô danh trở thành sản phẩm xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Cuốn sách do Nhà xuất bản Hội nhà văn và Alpha Book phát hành. (Nguồn: Alpha Books) |
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, sự cạnh tranh khốc liệt của thương trường không thua kém gì trên chiến trường. Những rủi ro đó làm cho nhiều doanh nghiệp, doanh nhân và người nuôi cá bao phen vất vả, thăng trầm. Không ít người đã phá sản, vỡ nợ phải bỏ trốn, thậm chí bị tù đày vì con cá tra này.
Trong số đó, Bửu Huy là một doanh nhân đã chịu đắng cay khi bị Tòa án Mỹ cáo buộc nhầm lẫn về gian lận tên gọi sản phẩm, để rồi phải bị bắt như một “tù binh” và bị giam giữ 134 ngày trong nhà tù Vương quốc Bỉ.
Hồi ký nói rõ những sự kiện dẫn đến “cuộc chiến thương mại” mà đỉnh điểm là việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ (US.DOC) đã áp Thuế chống bán phá giá (CBPG) lên sản phẩm fillet cá tra vào đầu năm 2003.
Những hệ lụy của nó tiếp tục kéo dài suốt 20 năm qua (2003-2023). Tuy thuế CBPG nay đã trở thành một thứ “thông lệ” của chủ nghĩa bảo hộ, nhưng nó tiếp tục là rào cản thương mại cho các doanh nghiệp cá tra Việt Nam.
Hồi ký còn đề cập trách nhiệm bảo hộ công dân của nhà nước Việt Nam khi xảy ra sự kiện bắt giữ Bửu Huy tại Hội chợ Thủy sản quốc tế châu Âu. Đây là cuộc đấu tranh pháp lý cam go, quyết liệt trong bối cảnh Việt Nam bước đầu hội nhập với nền kinh tế thế giới từ những năm 2000.
Tác giả cho biết chú ông (ông Ưng Tiếu), lúc còn sống, từng khuyên ông không nên “khơi lại đống tro tàn, những gì của quá khứ đau buồn thì hãy quên đi”. Đã 17 năm trôi qua, ông không muốn nhắc lại, vì muốn để cho nó chìm dần vào quên lãng.
Tuy nhiên, nhiều bạn bè, người thân hay hỏi ông về những ngày đen tối nhất của cuộc đời trong nhà tù xứ Bỉ. Họ muốn biết sự thật lý do tại sao ông bị Interpol Bỉ bắt? Về cuộc sống, sinh hoạt trong nhà tù Bỉ. Họ đã đối xử với tù nhân ra sao? Tại sao ông lại được chính phủ Bỉ trả tự do? Phản ứng của phía Mỹ khi đó như thế nào? Sự can thiệp, bảo hộ công dân của Chính phủ Việt Nam ra sao? Thiệt hại vật chất, tinh thần đối với công ty và gia đình ông?
Ông chia sẻ: “Có người còn hiểu sai vụ việc, cho rằng tôi đã phạm tội nên mới bị Tòa án Mỹ ra lệnh bắt. Quả thật, bất đắc dĩ tôi đã bị rơi vào hoàn cảnh tù tội như là số mệnh. Phải chăng do cái nghiệp của mình? Qua hơn một thập kỷ, đã vơi đi nhiều nỗi đau buồn, trong ký ức chỉ còn đọng lại những kỷ niệm, niềm vui, tình cảm con người, gia đình, người thân và bạn bè khi nhìn lại quãng đời mình đã đi qua”.
Cũng theo tác giả, trong tiến trình hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh, đấu đá trong thương trường cũng giống như trên chiến trường.
Tuy không súng đạn, không đổ máu, nhưng cuộc chiến thương mại giữa các doanh nghiệp cá tra và cá catfish cũng không kém phần quyết liệt. Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (Catfish Farmers of America - CFA) đã tung ra những đòn tấn công liên tục để bảo vệ quyền lợi của họ.
Viện nhiều lý do, nào là cá nuôi trong môi trường dơ bẩn, nào là giành độc quyền tên gọi catfish, cho đến việc kiện tụng pháp lý mang tính chính trị, CFA viện cớ rằng Việt Nam không phải là nền kinh tế thị trường để cáo buộc các doanh nghiệp cá tra bán dưới giá thành sản xuất, gây thiệt hại vật chất cho họ.
Cuối cùng, US.DOC phải áp thuế CBPG một cách phi lý lên sản phẩm cá tra. Từ đó, đã dẫn đến việc ông bị cáo buộc nào là cố tình làm sai nhãn hiệu, nhằm trốn thuế và “họ đã yêu cầu Interpol Bỉ bắt tôi làm tù binh”, ông nói.
Lúc đó, câu chuyện không còn là một sự kiện cá nhân mà thu hút sự quan tâm của cả nước vì đang trong thời kỳ đầu hội nhập kinh tế thế giới.
Khi vụ án xảy ra, báo chí trong và ngoài nước đưa tin rầm rộ trong bối cảnh có nhiều sự kiện quan trọng như: Việt Nam đang đàm phán tích cực để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đoàn Thủ tướng Chính phủ sang tham dự Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu lần thứ 6 (Asia-Europe Meeting-ASEM 6), diễn ra tại Helsinki, Phần Lan (10-11/9/2006); và Hội nghị cấp cao về hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương-APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) lần thứ 14, lần đầu được tổ chức tại Hà Nội (11/2006), với sự tham dự của nhiều nguyên thủ quốc gia, trong đó có Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush.
Tác giả bộc bạch: "Có những sự việc tạo nên niềm hãnh diện, nhưng cũng có những sự việc tạo nên “dấu ấn” sâu sắc trong sự nghiệp của mỗi con người. Việc ghi lại những sự kiện đó, giải đáp những nghi vấn, thắc mắc đã thôi thúc tôi viết hồi ký này".
Ước muốn của tác giả
Qua hồi ký, tác giả Bửu Huy muốn nói về nhiệm vụ bảo hộ công dân của Nhà nước Việt Nam. Không bao che cho những hành vi sai trái của doanh nghiệp, nhưng sẵn sàng bảo vệ công dân khi có sự cố ở nước ngoài.
Trong đó, sự tham gia tích cực của các bộ, ngành, Hiệp hội VASEP và sự đóng góp quý báu của những người liên quan trong cuộc đấu tranh pháp lý để đòi lại quyền tự do, sự công bằng trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Sau khi ông trở về Việt Nam, ngày 15/12/2006, Tòa án Bắc Florida đã đưa vụ án PSI/PTI ra xét xử. Danny Nguyễn, đại diện chủ nhân, đã nhận tội cố ý làm sai nhãn hiệu và đã bị tòa tuyên án 51 tháng tù giam, 3 năm quản chế, nộp phạt 1.139.275USD.
Mãi đến 5 năm sau, khi các luật sư của ông đệ đơn kiến nghị đến tòa án, ngày 4/8/2011, Tòa án Bắc Florida và Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã ra lệnh hủy bỏ tất cả cáo trạng buộc tội ông và công ty AFIEX, đồng thời, xóa tên ông vĩnh viễn trên mạng truy nã của Interpol quốc tế.
Đại sứ quán Mỹ sau đó còn cấp visa để ông có thể sang Mỹ và đi lại các nước trên thế giới một cách bình thường. Điều này có nghĩa, họ thừa nhận sự nhầm lẫn trong việc bắt giữ, buộc tội ông, cũng như giúp ông phần nào lấy lại niềm tin vào luật pháp.
Viết cuốn hồi ký này, tác giả Bửu Huy không muốn làm điều gì ảnh hưởng đến mối quan hệ bang giao đang ngày càng tốt đẹp giữa Mỹ và Việt Nam. Trái lại, ông rất vui mừng và mong muốn vun đắp cho những thành quả mà hai bên đã đạt được.
Ông chia sẻ: “Tôi luôn mong muốn chấm dứt hoàn toàn “cuộc chiến thương mại” vẫn còn dai dẳng giữa những doanh nghiệp nghề cá. Tôi mong ước tạo lập sự hợp tác thân thiện, bền vững giữa các hiệp hội, giữa những người nuôi cá nheo Mỹ và cá tra Việt Nam”.
Tác giả mong muốn một ngày không xa, “cuộc chiến thương mại” này sẽ đến hồi kết, chấm dứt việc áp thuế CBPG phi lý nói trên để thiết lập sự hợp tác thân thiện, bình đẳng giữa những người nông dân nuôi cá, các doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), Hiệp hội cá tra Việt Nam cùng với Hiệp hội chủ doanh nghiệp cá nheo (CFA) và các doanh nghiệp thủy sản Mỹ.
Có nhiều sự kiện liên quan đến quá trình phát triển ngành cá tra Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua, nhưng cuốn sách Tù binh chiến trường nhỏ gọn, dễ đọc chỉ gần 300 trang, được chia thành 32 chương và chương cuối.
Nói về cuốn sách, nhà văn Nguyễn Huy Minh nhận định: “Chúng ta và thế hệ mai này: những doanh nhân, luật sư, nhà ngoại giao, nhà quản lý… hẳn đều cần biết ngã rẽ cuộc đời đầy kịch tính qua hồi ký của tác giả Nguyễn Phước Bửu Huy”.
Bà Hoàng Lan Hương, nguyên Trưởng cơ quan đại điện TTXVN tại Bỉ, nguyên phụ trách Báo Le Courrier du Vietnam, cho rằng cuốn sách với giọng văn giản dị mà hào hứng, mang đậm nhiệt tình cháy bỏng với nghề, thực sự đã truyền cảm hứng và niềm tự hào cho cả những độc giả ngoại đạo với ngành thủy sản.