Từ trái sang: Hồ Chủ tịch, Thứ trưởng Nội vụ Hoàng Minh Giám, Ủy viên Cộng hòa Jean Sainteny, Cố vấn chính trị Leon Pignon, Đại diện Đảng Xã hội Pháp Luis Caput tại lễ ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. (Ảnh tư liệu) |
Có thể nói, cách tiếp cận trên là sự kế thừa “tư tưởng Hồ Chí Minh” trong lĩnh vực đối ngoại vào những ngày tháng đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Lúc bấy giờ, nhân dân ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách: nạn đói kinh hoàng hoành hành; nền kinh tế - tài chính nước nhà kiệt quệ; hơn hai chục vạn “Hoa quân nhập Việt” dưới danh nghĩa “giải giáp quân phiệt Nhật” nhũng nhiễu đủ điều; thực dân Pháp rắp tâm lập lại ách thống trị nhân dân ta…
Trong bối cảnh ấy, ngoại giao được đưa lên tuyến đầu trong công cuộc bảo vệ thành quả cách mạng, tranh thủ thời gian củng cố nội lực. Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân gánh thêm nhiệm vụ Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời, trực tiếp tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao quan trọng hàng đầu.
Qua những hoạt động của Người đã hình thành những đường nét chủ yếu của “trường phái ngoại giao Việt Nam” tiếp tục được vận hành cho tới tận nay và mãi mãi sau này.
Điều kiện tiên quyết để có thể tiến hành hoạt động đối ngoại thành công là phải có tầm nhìn xa trông rộng và quyết sách sáng suốt. Đảng ta và Bác Hồ đã thể hiện sáng tỏ điều này trong việc đánh giá cục diện, bày binh bố trận rất tài tình cũng như phương cách tiến hành vừa kiên quyết vừa khôn khéo.
Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng nhóm họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) trong các ngày 13-15/8/1945 để chuẩn bị tổng khởi nghĩa đã chỉ rõ:
“2. Hiện nay về chính sách ngoại giao, chúng ta cần phải nhận rõ hai điều:
a) Sự mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh, Pháp và Mỹ, Tàu về vấn đề Đông Dương là một điều ta cần lợi dụng.
b) Sự mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương.
3. Chính sách của chúng ta là phải tránh các trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng đồng minh (Tầu, Pháp, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt chính phủ Pháp De Gaulle hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc.
Bởi vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương và mưu mô của một số quân phiệt Tầu định chiếm nước ta.
4. Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định sự thắng lợi giữa ta và đồng minh”. (2)
Theo tinh thần trên, ta đã ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 với Pháp với hai thành quả chiến lược là Pháp phải chấp nhận nước ta là một quốc gia tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội, nền tài chính riêng và ta đuổi được 20 vạn quân Trung Hoa Quốc dân Đảng về nước.
Để có được thành quả quý giá đó, Hiệp định ghi nhận hai sự nhân nhượng mang tính sách lược của ta là tạm chấp nhận cụm từ nước “tự do” trong Liên hiệp Pháp thay vì nước “độc lập”; thuận để 15.000 quân Pháp tạm thời thay thế quân Tưởng với lộ trình giảm dần đi tới rút hết trong vòng năm năm.
Những nhân nhượng trên đã gây ra những sự phân vân trong nội bộ ta nên Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã phải ban hành Chỉ thị “Hòa để tiến”, trong đó khẳng định những nhân nhượng theo Hiệp định sơ bộ để “tránh tình thế bất lợi: Phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong nước)” và “bảo toàn thực lực... chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”. (3)
Hồ Chủ tịch và Bộ trưởng Marius Moutet tại Paris ngày 14/9/1946. |
Để cụ thể hóa các điều thỏa thuận trong Hiệp định sơ bộ, hai bên đã mở các cuộc đàm phán tại Đà Lạt và tại lâu đài Fontainebleau ở ngoại ô Paris. Để chỉ đạo và hỗ trợ đoàn đàm phán nước ta do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu, đồng thời nêu cao vị thế của đất nước, tranh thủ dư luận Pháp và thế giới, Bác Hồ đã chính thức ở thăm Pháp gần bốn tháng với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp.
Đây quả thực là một sự kiện “độc nhất vô nhị” trong lịch sử ngoại giao thế giới khi một nhà cách mạng từng bị chính quyền thực dân kết án tử hình trở thành thượng khách của “mẫu quốc”, dùng máy bay và tàu thủy của chính bọn chúng tới thăm sào huyệt của chúng! Sự kiện này một lần nữa cho thấy ý chí sắt đá, lòng dũng cảm vô song, niềm tin vững chắc của Bác vào sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc.
Do hành động ngang ngược của bọn thực dân Pháp, các cuộc đàm phán ở cả Đà Lạt lẫn Fontainebleau đều đổ vỡ và Bác phải trực tiếp đàm phán với chính phủ Pháp, ký Tạm ước 4/9/1946 để cứu vãn tình hình, tranh thủ thêm thời gian chuẩn bị cuộc chiến đấu...
Đó là những bài học kinh điển về cách tiếp cận “nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” (4) như Bác Hồ sau này đã nhấn mạnh.
Bên cạnh tuyến đấu tranh ngoại giao với Pháp, Bác đã thực hiện chủ trương rộng mở “Làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với ai” (5), trong đó “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em; đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè” (6), trong đó “Chính sách đối ngoại là thân thiện với tất cả các nước láng giềng Trung Hoa, Ấn Độ, Xiêm La, Cao Miên, Ai Lao… mà không thù gì với nước nào”. (7).
Bên cạnh quan hệ song phương, Bác đã có những nỗ lực lớn lao để tiến hành cái mà nay thường được gọi là “ngoại giao đa phương” bằng cách nhiều lần gửi thư cho năm nước ủy viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc yêu cầu kết nạp nước ta vào tổ chức toàn cầu này song chưa thành.
Song song với “ngoại giao chính trị”, Bác đã dành mối quan tâm lớn tới “ngoại giao kinh tế” trên cả bình diện song phương lẫn đa phương. Một điều kỳ lạ là 75 năm trước đây, vào cuối năm 1946, Bác đã gửi thư cho Liên hợp quốc, trong đó Bác khẳng định: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ thuật của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc” (8).
Do hoàn cảnh khách quan, những chủ trương nhìn xa trông rộng xuyên thế kỷ ấy của Bác mới trở thành hiện thực ở nước ta trong thời kỳ đổi mới sau 40 năm!
Ngay từ những ngày ấy, hoạt động đối ngoại của Đảng và nước ta đã được tiến hành đồng thời theo cả ba tuyến: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Là bộ phận khăng khít của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Đảng ta luôn duy trì mối quan hệ khăng khít với Quốc tế cộng sản và các đảng thành viên, nhất là với các Đảng Cộng sản ở Liên Xô trước đây, ở Trung Quốc và ở Pháp. Trong khi chưa tranh thủ được sự công nhận chính thức về đường Nhà nước, ngoại giao nhân dân đóng vai trò rất quan trọng. Ở thăm Pháp trên bốn tháng, Bác Hồ thường sống trong nhà bạn bè Pháp và bà con người Việt, tiếp xúc với đại diện đủ các tầng lớp nhân dân Pháp và cả các nước khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiếu nhi Pháp, tháng 7/1946. (Ảnh tư liệu) |
Một hoạt động khác được Bác đặc biệt quan tâm là giới truyền thông. Minh chứng cho điều đó là trong khoảng thời gian từ 19/8/1945 tới 19/12/1946, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bác đã 17 lần tiếp xúc, trả lời phỏng vấn đại diện các cơ quan truyền thông hàng đầu thế giới.
Đối chiếu hoạt động đối ngoại sôi động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày nay, ta có thể cảm nhận rất rõ những tư tưởng lớn của Đảng và của Bác Hồ đặt nền móng từ hơn bảy chục năm trước đây, khởi đầu cho việc không ngừng nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của nước nhà. Chắc chắn rằng, những tư tưởng ấy sẽ tiếp tục đưa nước ta “lên đài vinh quang, sánh vai cùng bè bạn năm châu” như Bác Hồ từng mong đợi.
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.162.
2. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.427.
3. Như trên, tập 8, tr.48.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.555.
5. Như trên, tập 5, tr.257.
6. Như trên, tập 5, tr.168.
7. Như trên, tập 5, tr.199.
8. Như trên, tập 4, tr.470.