Nhà văn hóa Hữu Ngọc: Mỗi ngày 1, 2 đô-la | |
Nhà văn hóa Hữu Ngọc bàn về một hiện tượng xã hội học: Chúa trời và bóng đá |
Nếu tôi nhớ không nhầm thì vào những năm 1980, nhà giáo dục Nguyễn Lân bị “đấu tố” vì nêu khẩu hiệu cũ Tiên học lễ, hậu học văn.
Nhưng qua thời gian, khẩu hiệu ấy được chấp nhận, nhiều trường trưng lên ngay ngoài cổng. Năm ngoái, cô giáo hiệu trưởng một trường PTTH ở Kiến An đã biên soạn cuốn Tập bài đạo đức để giải thích chữ lễ trong câu Tiên học lễ...
Cho lễ nghĩa là đạo đức. Ý đồ của cô thì tốt, nhưng trình độ hiểu biết còn non, chất lượng sách kém nên bị thu hồi. Hai sự việc trên xảy ra cách nhau ba chục năm. Điều này chứng tỏ lễ và văn vẫn là vấn đề thời sự của giáo dục. Trước khi phê phán hay tán thành Tiên học lễ, hậu học văn, có lẽ nên tìm hiểu thêm lễ là gì, văn là gì? Ý nghĩa câu đó áp dụng vào hoàn cảnh xã hội của từng thời kỳ lịch sử có thể khác nhau.
Ý nghĩa cổ điển của lễ và văn:
Lễ là một khái niệm cơ bản của Khổng học và có một cơ sở lý luận phức tạp. Nghĩa gốc của lễ là hình thức cúng tế, cầu thần ban phúc, nghĩa rộng là những quy tắc cho đời sống chung trong một cộng đồng xã hội (như cưới xin, ma chay, thăm hỏi, quan hệ chính quyền, làng xóm, gia đình, họ hàng...), lối cư xử hàng ngày (lời nói, cử chỉ, thái độ) trong các mối quan hệ ấy. Theo Nho giáo, lễ để thể hiện trật tự của trời đất. Trời đất và xã hội có trên có dưới, cần có lễ để phân biệt tôn ti trật tự. Lễ nhằm ngăn cản những cá nhân có hành vi và tình cảm không thích đáng với vị trí của mình (cha mẹ ra cha mẹ, con cái ra con cái, thầy ra thầy, trò ra trò...). Nhà toán học và Việt Nam học Hoàng Xuân Hãn nhấn mạnh: “Lễ là một từ thường bị dịch sai (ngoài nghĩa cúng tế, nghi lễ), lễ chỉ sự ứng xử với nhau một cách phù hợp với những quy tắc về nề nếp thanh lịch, lễ tiết” (Toàn tập La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn). Như vậy, lễ là ứng xử, thái độ bên ngoài để thể hiện cái bên trong, là nội hàm của chữ văn. Cô giáo ở Kiến An hiểu lễ là đạo đức, đã nhầm cái bên ngoài với cái bên trong.
Vậy khái niệm văn là gì?
Chữ văn có nhiều nghĩa, nhưng có thể hiểu khái quát là đạo trời, đạo Khổng (thể hiện trong Tứ thư và Ngũ kinh). Từ điển Dictionnaire Annamite Chinois Francais của linh mục G.Hue cho là có trường hợp văn đồng nghĩa với văn hóa, văn hiến, văn minh (mà của Trung Quốc là đạo Khổng).
Tóm lại, câu Tiên học lễ, hậu học văn nghĩa gốc là phải ứng xử lễ phép đối với thầy trước đã, trước khi học chữ để tiếp thu đạo thánh hiền (văn).
Những nhà lý học đời Tống đã thần thánh hóa đạo Khổng khiến cho quan hệ thầy trò trở nên thiêng liêng (trong tam cương: quân, sư, phụ). Chữ lễ đối với thầy gần mang tính tôn giáo.
Tiên học lễ, hậu học văn gia nhập Việt Nam:
Ý nghĩa đơn giản câu này trong dân gian là: đi học thì phải trọng thầy, nhưng ứng xử thể hiện chữ lễ như thế nào lại thay đổi tùy từng thời kỳ.
Thời phong kiến, qua thư tịch Hán Nôm, ta thấy quan hệ thầy trò gần với “tôn sư trọng đạo” của Tống Nho. Chu Văn An được thờ ở Văn Miếu. Có thể, cũng như mọi giáo điều Khổng học khi nhập vào ta, quan hệ sư đệ được dân gian hóa và gần gũi với nhau hơn ở Trung Quốc (vai trò thầy đồ trong làng xã), ít câu nệ hơn về lễ độ. Thời Pháp thuộc, trước khi bỏ chữ Nho, tinh thần đó vẫn tồn tại. Ngay cả vào những năm 1920, năm lên 6 tuổi, tôi còn đi học chữ Nho, thầy đồ ở phố Hàng Quạt Hà Nội, “tiên học lễ…” - cha mẹ tôi phải làm lễ xôi gà để tôi “nhập môn”. Khi thôi học chữ Hán, tôi theo học hệ thống Pháp-Việt: sáu năm tiểu học, bảy năm trường Bưởi, một năm đại học Luật. Càng lên các lớp cao, từ Cao đẳng tiểu học, lớp không chỉ có một thầy như thời Nho học, truyền thống tôn sư trọng đạo vẫn còn, nhưng học sinh lớn đã có thái độ phê phán thầy dạy về khả năng, về đạo đức, điều trước kia là tối kỵ!
Mấy năm trước Cách mạng tháng Tám, tôi đi dạy trung học ở Vinh (trường Lễ Văn) và ở Huế thì thấy tình thầy trò ở miền Trung còn sâu đậm lắm. Cho đến nay, có học sinh cũ ở Vinh, là bác sĩ về hưu, trên 80 tuổi, tuy chỉ kém tuổi tôi chút ít, vẫn nhất định gọi tôi là thầy. Tết nào cũng đến chúc Tết thầy, biếu tặng giò thủy tiên. Năm nào các học sinh cũ cũng tổ chức họp lớp rồi đến chào thầy. Cách mạng tháng Tám đã dân chủ hóa quan hệ thầy trò. Trước khi vào bộ đội năm 1950, tôi dạy ở Nam Định và Yên Mô, học sinh cấp 3 gọi thầy là “anh, chị”, học sinh rất gần tôi, coi như anh cả. Quan hệ thân mật khác thời trước.
Năm 1950 có tổng động viên. Các trò tòng quân đến 9/10 người, còn tôi thì lên Chiến khu Việt Bắc. Một số học sinh vào Nam, đa số đi kháng chiến ở Việt Bắc, dù ở Nam hay Bắc, họ đều trở thành cán bộ quân sự và dân sự xuất sắc. Sau chiến tranh, các cựu học sinh tuổi ngũ tuần đã lập hội ở trong và ngoài nước (nhất là ở Mỹ), vượt qua hàng rào ý thức hệ, họ giao lưu với các thầy cũ.
Nôm na có thể hiểu là học ứng xử lễ nghĩa trước khi học chữ.
Cái vốn gốc của đạo làm người thì trẻ đã thừa hưởng của xã hội và nhất là gia đình trước khi đi học và trong khi đi học, ảnh hưởng tốt xấu của gia đình và xã hội rất lớn.
Vì vậy, quy tội đạo đức và xã hội xuống cấp do giáo dục nhà trường chỉ đúng một phần. Giáo dục chỉ có thể tốt được khi chính thể tạo ra một xã hội tốt, môi trường gia đình tốt! Nếu phô trương khẩu hiệu Tiên học lễ... ở cổng trường mà cái gốc không tương ứng thì chỉ là khẩu hiệu suông. Thì ra khẩu hiệu ấy không chỉ cần cho học trò mà cần cho cả các thầy cô!
|
Nhà văn hóa Hữu Ngọc: Bảo vật của chùa Hồng Phúc
TGVN. Bảo vật đặc biệt của chùa Hồng Phúc là một bức tượng, có lẽ ở Việt Nam không chùa nào có. Đó là tượng một ... |
|
Nhà văn Hữu Ngọc: Việt Nam và Khối Pháp ngữ
TGVN. Việt Nam có truyền thống văn hóa Pháp, việc Việt Nam gia nhập Khối Pháp ngữ còn có những lợi ích cụ thể về ... |
|
Nhà văn Hữu Ngọc: Học tiếng Tây để đánh Tây
TGVN. Từ lúc người An Nam buộc phải học tiếng Tây đến khi trí thức được Tây đào tạo lại đánh Tây, cuộc hành trình ... |