TIN LIÊN QUAN | |
Nhà văn hóa Hữu Ngọc: Từ bi cửa Phật | |
Nhà văn hóa Hữu Ngọc: Mũi tên, bài ca và chữ nghiệp |
Tác giả Kim Lefèvre và cuốn tự truyện Cô đầm lai (Métísse Blanche). |
Cách đây khoảng hơn hai chục năm, tôi có dịp gặp chị Kim Lefèvre ở Hà Nội và ở Pháp. Chị là nữ tác giả Pháp khá nổi tiếng với cuốn tự truyện Cô đầm lai (Métísse Blanche), xuất bản năm 1989. Chị kể lại những kỷ niệm cay đắng thời thơ ấu và niên thiếu lúc ở Việt Nam, trước và sau Cách mạng tháng Tám và thời kỳ kháng chiến, đất nước chia cắt, đến khi chị sang Pháp vào tuổi 25.
Mẹ chị, người Nam Định hiền dịu, rất được chị yêu mến. Do “trót dại” thời trẻ, phải lấy một “lính Tây”, người bố này bỏ mẹ con chị về Pháp. Hai mẹ con long đong vất vả, trôi dạt vào Nam. Khổ nhất cho cô bé là ở đâu, cô cũng bị khinh miệt vì thời kháng chiến chống Pháp, cô mang dòng máu kẻ thù Pháp trong người, ngay cả khi bị gửi vào cô nhi viện. “Còn bé, tôi mơ ước có những tai nạn may mắn nào, tháo hết dòng máu nguyền rủa ấy, để tôi thành người Việt Nam thuần khiết, để mình hòa với mọi người chung quanh và với bản thân mình. Tôi tránh soi gương, đi qua những vũng nước, tôi không dám nhìn xuống bóng mình”. Tác giả tự phân tích mình một cách tỉnh táo: mình là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân, dân tộc này lại là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân. “Tôi miễn cưỡng nhớ lại sự cai trị thực dân đáng xấu hổ và cái ngạo mạn của người da trắng. Tôi là cái quả hôi tanh: sự phản bội của một người Việt Nam là mẹ tôi (lấy Tây)”. Cũng may, ngoài tuổi hai mươi, cô Kim được một “bà xơ” giới thiệu với một bà lớn ngoan đạo, cho đi học ở Đà Lạt. Cô đậu tú tài, được học bổng sang Pháp học, đậu tiến sĩ và ở lại Pháp.
Bị chà đạp ở Việt Nam như vậy, mà chị Kim khi trưởng thành vẫn nhớ và yêu da diết quê mẹ Việt Nam. “Tôi đã yêu đất nước này, quê hương tôi với bao người quen thuộc biết bao. Những người da màu đồng, nhớ đôi mắt bầu dục đen sáng và thông minh của cậu tôi, nhớ cử chỉ của bà tôi giơ đũa lên kêu “khà khà!” khi bữa cơm có món ăn ngon, nhớ dáng đi nhún nhẩy của bà hàng xóm, hàm răng của bà đen như hạt na... Ngày nay, tôi yêu mảnh đất này một cách khác, không theo kiểu đứa trẻ khổ đau, mà là một người lớn có thể phân biệt cái gì đã mang lại cho tôi cũng như cái đã loại trừ mất ở tôi”.
Một phụ nữ Việt lai Pháp, bà Marie Jeanne H. sống thời thơ ấu, thiếu niên ở Việt Nam, hạnh phúc nên có tâm sự khác Kim Lefèvre. Bà hiện ở Đức và có chồng Đức. Tôi không quen bà, nhưng cuối năm 2010, bà viết thư tiếng Pháp cho tôi tâm sự như sau:
“Xin chào ông Hữu Ngọc,
Trong nhiều năm, tôi cố lùng tìm một cuốn sách miêu tả văn hoá Việt Nam thật chi tiết. Người ta khuyên tôi nên tìm tác phẩm của ông. Tôi sống ở Đức. Để có được sách của ông, tôi nảy ra sáng kiến đi Việt Nam một chuyến. Tôi đã làm việc này và đó cũng là dịp cho ông chồng người Đức của tôi làm quen với Việt Nam... Ông ấy đã đọc nhiều phóng sự và được biết nước ông qua sách báo. Tôi rất sung sướng có được cuốn sách ông viết: À la découverte de la culture Vietnamienne (Khám phá văn hoá Việt Nam). Tôi hết sức trân trọng gìn giữ cuốn sách, không dám cho ai mượn, sợ bị thất lạc.
Tôi sinh ra ở Sài Gòn năm 1945 là người lai, mẹ Việt bố Pháp. Năm 1958, tôi rời Sài Gòn đi Paris, học hành ở đó. Hiện tôi vẫn nói được tiếng Việt, khiến ai cũng ngạc nhiên. Tôi rất thích và tự hào vẫn nói được ngôn ngữ Việt, nơi tôi ra đời. Mẹ tôi cũng là người Việt Âu, bà sinh năm 1908 ở Năm Căn, sống ở Sài Gòn đến 1962. Bà được các “bà xơ” dòng Thiên Hựu ở Sóc Trăng nuôi dưỡng. Thời đó, ai cũng coi nhau là bạn cả. Lũ chúng tôi là con cái đều gọi các mẹ bạn là dì. Dì Colette, dì Aline... Thời mẹ tôi, tôi đã được hưởng sự tốt bụng và lòng chân thành của mọi người Việt, điều ngày nay thật hiếm. Tôi chỉ còn lại vài người bạn thời thơ ấu cùng ở Việt Nam, còn giữ được tâm tính ấy. Mẹ tôi và mấy bà dì đã qua đời. Chúng tôi thiếu sự tốt bụng ngày xưa. Nếu có dịp lại sang Việt Nam, tôi có thể được gặp ông không? Tôi coi ông vào số những người Việt thời mẹ tôi. Chắc chắn tôi sẽ tìm thấy ở ông sự tốt bụng của người xưa mà tôi tìm kiếm... Tôi cũng có bạn thời thơ ấu ở Việt Nam đang ở Đức, cũng muốn đi Việt Nam tìm hiểu sâu hơn văn hóa Việt và tìm gặp những “người xưa” để trao đổi chút ít về dĩ vãng. Tôi muốn ghi lại những kỷ niệm thời thơ ấu ở Việt Nam. Mẹ đỡ đầu của tôi là bà Perrucca, giáo viên dạy toán ở Hà Nội. Ông có học bà không? Bà Azambe, bạn thời mẹ tôi, rời Sài Gòn khoảng năm 1953-1954. Tôi nhớ mãi ngày hai vợ chồng bà đến từ biệt chúng tôi, mắt đầy lệ. Tôi lúc đó còn bé, nhưng quên làm sao được cuộc ly biệt xúc động ấy. Tôi muốn sang Việt Nam lần nữa. Tôi có thể gặp ông không? Để nói về cái “ngày xưa” tốt đẹp ấy? Chúng tôi, những người lai Âu-Á không tài nào quên được nước Việt Nam tươi đẹp. Mong làm quen với ông. Nếu thượng đế ban ân, tôi sẽ lên đường…Marie Jeanne H.”
Liệu bà H. có tìm được ở quê hương cũ cái bà tìm không, đó là tình người?
Nhà văn hóa Hữu Ngọc bàn về học “lễ” và học “văn” TGVN. Cái vốn gốc của đạo làm người thì trẻ đã thừa hưởng của xã hội và nhất là gia đình trước khi đi học ... |
Nhà văn hóa Hữu Ngọc: Mỗi ngày 1, 2 đô-la TGVN. Người nào mỗi ngày chỉ kiếm được từ 1 đô-la trở xuống thì coi như người nghèo. Đó là tiêu chuẩn do các cơ ... |
Nhà văn hóa Hữu Ngọc bàn về một hiện tượng xã hội học: Chúa trời và bóng đá TGVN. Đam mê bóng đá, cũng như mọi đam mê khác, đều dẫn đến một tâm trạng phi lý tính, xuất phát từ cảm tính ... |