Từ trái sang: Các Ông Phạm Hồng Cư, Văn Tiến Dũng, Huy Du, Nguyễn Khải tại Mặt trận Quảng Trị 1972. |
Bốn thập kỷ đã trôi qua, nhưng chiến dịch giải phóng Quảng Trị đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Đó là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được giải phóng, là chiến thắng đầu tiên vang dội cổ vũ toàn quân toàn dân, mở màn cho cuộc tiến công chiến lược lịch sử năm 1972. Trong cuộc tiến công chiến lược này, Quảng Trị là hướng chủ yếu, nơi tập trung đoàn chiến dịch mạnh nhất của quân đội ta gồm các đơn vị binh chủng hợp thành có bề dày truyền thống, được trang bị và huấn luyện tốt. Quảng Trị tiếp giáp với hậu phương miền Bắc, có điều kiện đảm bảo hậu cần cho yêu cầu tác chiến lớn, dài ngày. Trên mảnh đất Quảng Trị anh hùng, năm 1972 đã diễn ra một cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt giữa ta và địch trong một chiến dịch dài ngày nhất (304 ngày), kể từ khi mở màn chiến dịch (30/3/1972) đến ngày ký Hiệp định Pari về Việt Nam (27/01/1973).
Mọi người còn nhớ: Năm 1972, ta mở một cuộc tiến công chiến lược quy mô toàn miền Nam, phối hợp các mũi tiến công của bộ đội chủ lực trên 3 hướng: Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ với các chiến dịch tổng hợp ở Khu 5 và Đồng bằng sông Cửu Long.
Trung tướng Phạm Hồng Cư (tên thật là Lê Đỗ Nguyên) sinh năm 1926 tại Thanh Hóa, sống tại Hà Nội. Ông đã tham gia Cách mạng tháng Tám và chiến đấu trong nhiều chiến dịch quân sự lớn như Chiến dịch Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam... Năm 1972, ông là đặc phái viên của Tổng cục Chính trị tại Mặt trận Quảng Trị. Ông nguyên là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. |
Ngày 30/3/1972, ta tiến công địch ở Quảng Trị và Kon Tum. Ngày 1/4/1972, miền Đông Nam Bộ, Khu 5 và Đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt tiến công và nổi dậy.
Ngày 31/3/1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi: "Chiến dịch lịch sử năm 1972 đã bắt đầu! Các đồng chí hãy nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quyết chiến quyết thắng, tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt tiến công địch, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chiến đấu, quyết giành cho được những thắng lợi to lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính yêu…".
Quảng Trị, 11 giờ ngày 30/3/1972, Tư lệnh mặt trận Lê Trọng Tấn hạ lệnh: "Bão táp I". 247 khẩu pháo các loại của bộ đội pháo binh mở màn chiến dịch, đồng loạt bắn vào 19 căn cứ trên tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.
Ngay từ loạt đạn đầu, pháo ta bắn trúng hầu hết các trận địa pháo, các sở chỉ huy địch ở điểm cao 241, Mai Lộc, Miếu Bái Sơn, Quán Ngang, Đông Hà, Cồn Tiên, Dốc Miếu… Sau cuộc bắn phá của pháo binh dài 36 tiếng đồng hồ với gần 8.000 viên đạn các loại, các lực lượng binh chủng hợp thành gồm bộ binh, xe tăng xuất phát tiến công, đột phá trên hướng chủ yếu ở phía Tây và Tây bắc Quảng Trị, kết hợp với mũi thọc sâu bao vây ở phía Đông và mũi chia cắt chiến dịch ở phía Nam.
Sau 5 ngày chiến đấu, đến ngày 4/4/1972, bộ đội ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, diệt 4 căn cứ trung đoàn, 7 căn cứ tiểu đoàn trên đường số 9, bức hàng trung đoàn 56, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 2 và lữ đoàn 147, giải phóng hoàn toàn 2 huyện Gio Linh, Cam Lộ. Trưa ngày 4/4, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp gọi điện tới Sở chỉ huy chiến dịch biểu dương quân và dân Quảng Trị đánh thắng trận đầu.
Trước đòn tấn công mạnh của ta ở Quảng Trị, ngày 3/4, Nguyễn Văn Thiệu họp Hội đồng An ninh Quốc gia, điều động gấp 5 trung đoàn, lữ đoàn, 3 thiết đoàn xe tăng thiết giáp từ Sài Gòn và Đà Nẵng ra Quảng Trị. Địch điều chỉnh thế phòng ngự thành ba cụm Đông Hà, Ái Tử, La Vang - Quảng Trị, lực lượng chủ yếu tập trung ở Đông Hà.
Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: "Địch đã tăng cường lực lượng nhưng chưa được củng cố, tinh thần hoang mang giao động, nếu ta đánh mạnh, đánh nhanh thì chúng sẽ tan vỡ".
15 giờ ngày 8/4, pháo binh thực hành kế hoạch hỏa lực "Bão táp II". 2.713 viên đạn pháo giáng xuống căn cứ địch ở Đông Hà, Ái Tử. 5 giờ sáng ngày 9/4, Sư đoàn 304 tiến công cụm quân địch ở Ái Tử. Sư đoàn 324 đánh địch ở La Vang - Quảng Trị. Sư đoàn 308 được tăng cường Trung đoàn 48 (thay cho Trung đoàn 88 làm nhiệm vụ dự bị chiến dịch) và 2 đại đội xe tăng tiến công cụm quân địch ở Đông Hà- Lai Phước. Ngay từ tuyến giáp, địch chống trả quyết liệt. Quân ta đánh địch trong hành tiến, bị các trận địa có xe tăng địch dấu trong công sự ngăn chặn, 6 xe tăng T54 của ta bị bắn hỏng. Mũi tiến công của 308 vào căn cứ Đông Hà buộc phải dừng lại. Phía tây Ái Tử, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) giành giật quyết liệt với địch mới chiếm được căn cứ Phượng Hoàng, Hướng đông, 3 tiểu đoàn bộ binh, đặc công vượt sông Cửa Việt bị pháo hạm Mỹ bắn chặn. Tại Cửa Việt, Trung đoàn 126 hải quân chiếm được cảng nhưng cũng bị tổn thất.
Thực tế chiến đấu cho thấy lực lượng địch ở Đông Hà - Quảng Trị khá đông gồm sư đoàn 3 bộ binh (thiếu), 3 liên đoàn biệt động quân 1, 4, 5, lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ, 3 thiết đoàn 11, 17 và 20, được không quân, pháo binh yểm trợ ở mức cao. Đặc biệt, không quân và hải quân Mỹ hoạt động mạnh, vừa yểm trợ cho quân ngụy ở Quảng Trị, vừa tăng cường đánh phá hậu phương chiến dịch. Máy bay B52 oanh tạc rải thảm, khu trục hạm Mỹ pháo kích ác liệt các trận địa ta và tuyến vận chuyển chiến dịch từ sông Gianh, Lệ Thủy (Quảng Bình) vào mặt trận.
Về chiến thuật, địch đã thay đổi thủ đoạn phòng ngự. Bị thất bại ở tuyến phòng thủ vòng ngoài, với ưu thế xe tăng thiết giáp, địch kết hợp giữa xe tăng và bộ binh tạo thành từng cụm phòng ngự di động, luôn thay đổi vị trí, tránh bị ta tập kích diệt gọn.
Để đánh bại chiến thuật "xe tăng bầy", "vỏ thép cứng di động" và phá vỡ hệ thống phòng ngự đã được tăng cường của địch, ta cần phải có thời gian chuẩn bị, tìm ra cách đánh thích hợp. Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tạm ngừng tiến công, kết thúc đợt 1, mở một đợt "đệm", phát động phong trào "săn xe tăng địch", tổ chức các trận đánh nhỏ, vừa tiêu hao sinh lực địch vừa khẩn trương chuẩn bị cho cuộc tiến công quyết định trong 2 đợt chiến dịch.
5 giờ sáng ngày 27/4, ta mở đợt 2 chiến dịch, đợt quyết định chiến trường. Mục tiêu là tiêu diệt tập đoàn phòng ngự mạnh của địch ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang - Quảng Trị, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy, giải phòng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, sau đó nắm thời cơ, phát triển tiến công địch ở Thừa Thiên.
Đợt 2 chiến dịch đã diễn ra trong 6 ngày đêm, mở đầu bằng đòn hỏa lực “Bão táp III”. Sư đoàn 308 được hỏa lực pháo binh chiến dịch chi viện, liên tục tiến công cụm quân địch ở Đông Hà - Lai Phước. Trong tiếng nổ của tiếng đạn pháo, xe tăng T54, pháo cao xạ 37, 57 trong đội hình binh chủng hợp thành cử Sư đoàn yểm hộ bộ binh tiến công. 18 giờ ngày 28/4, thị xã Đông Hà được giải phóng. Ủy ban quân quản được thành lập, do đồng chí Nguyễn Hiền, Phó Chính ủy sư đoàn làm Chủ tịch. Cùng vào Đông Hà có nữ đồng chí Hồ Thị Bích La, Thị ủy viên.
Phía Ái Tử, Sư đoàn 304 được các cụm pháo Trung đoàn 45, 164, 38 chi viện. 21 giờ ngày 30/4, bộ binh, xe tăng Sư đoàn 304 tràn vào sân bay Ái Tử. Đến 14 giờ ngày 1/5, quân ta hoàn toàn làm chủ căn cứ.
Mất Đông Hà, Ái Tử, quân địch ở Quảng Trị - La Vang hoang mang rút chạy.
Hơn một trăm xe tập trung ở La Vang Thượng. Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho Sư đoàn 324 (thiếu) cắt đường số 1, pháo binh chiến dịch tập trung hỏa lực bắn vào La Vang Thượng.
Phối hợp với đoàn tiến công của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, nhân dân Quảng Trị nổi dậy giành lại chính quyền ở khắp các thôn xã. 18 giờ ngày 1/5/1972, tỉnh Quảng Trị hoàn toàn giải phóng.
Tuy nhiên chiến sự trên mặt trận Quảng Trị diễn ra giằng co quyết liệt, quân và dân Quảng Trị còn phải đương đầu và vượt qua nhiều thử thách rất lớn suốt nửa cuối năm 1972.
Ngày 28/6/1972 được không quân, pháo hạm Mỹ chi viện, Mỹ - ngụy huy động hai sư đoàn dù và thủy quân lục chiến,một lực lượng lớn pháo binh, thiết giáp vượt sông Mỹ Chánh phản kích lên thị xã Quảng Trị. Cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã, giữ thành Cổ Quảng Trị kéo dài gần 3 tháng dưới bom đạn ác liệt của quân thù. Không có công sự trận địa nào không bị bom đạn pháo địch cày xới, băm nát hàng trăm lần. Thêm vào đó, mưa lũ đầu mùa đổ xuống công sự, chiến hào ngập nước, nhiều hầm hào bị sụt lở. Khó khăn là rất lớn. Các chiến sĩ dựa vào chiến hào, dựa vào tường thành cổ giành giật với địch từng mô đất, từng mảng tường, từng đoạn chiến hào, có phân đội đã chiến đấu đến người cuối cùng.
Các đơn vị bảo vệ thị xã Thành cổ Quảng Trị đã giữ vững trận địa 81 ngày đêm, nêu một tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiềm giữ một bộ phận lực lượng cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện cho đấu tranh ngoại giao và các mặt trận khác đẩy mạnh tiến công.
Ngày 22/9/1972, dưới sự chi viện không quân và pháo hạm của Mỹ, quân ngụy mở một cuộc hành quân lớn nữa hòng chiếm lại toàn bộ vùng giải phóng Quảng Trị. Dựa vào hệ thống phòng ngự trận địa, quân và dân Quảng Trị đánh lui các đợt tiến công của địch, giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị.
Do những thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam, cùng với "trận Điện Biên Phủ trên không" ở miền Bắc, tại Hội nghị Pari, đế quốc Mỹ buộc phải thỏa thuận về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, đơn phương rút quân về nước.
Chữ ký trên Hiệp định Pari chưa ráo mực, ngụy quân Sài Gòn đã phá hoại Hiệp định. 23 giờ ngày 30/1/1973, lợi dụng lúc gió to nước thủy triều xuống, địch cho lữ đoàn đặc nhiệm có hơn 100 xe tăng, xe bọc thép dẫn đầu tiến theo mép nước lấn chiếm Cửa Việt. Chúng bị Sư đoàn 320 B trừng trị thích đáng, đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm đầu tiên của địch sau Hiệp định Pari.
Hai năm sau, ngày 30/4/1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng và trong công cuộc giải phóng miền Nam, Quảng Trị là tỉnh đầu tiên sạch bóng quân thù.
Trung tướng Phạm Hồng Cư