📞

Bộ tứ 'chuyển mình' và tác động đối với Biển Đông

Trần Quang Châu 08:00 | 10/06/2021
Tiến trình tăng cường hợp tác trong nhóm Bộ tứ (Quad) gồm Mỹ, Australia, Nhật Bản và Ấn Độ có thể tác động tích cực đối với Biển Đông.
Tiến trình tăng cường hợp tác trong nhóm Bộ tứ, gồm Mỹ, Australia, Nhật Bản và Ấn Độ, có thể tác động tích cực đối với Biển Đông. (Nguồn: The Quint)

Ngày 12/3 vừa qua, lãnh đạo các nước thành viên Bộ tứ lần đầu tiên họp thượng đỉnh trực tuyến. Những đánh giá sơ bộ cho thấy, tiến trình tăng cường hợp tác trong Bộ tứ có thể có các tác động tích cực đối với Biển Đông.

Thể chế hóa từng bước

Hội nghị thượng đỉnh năm 2021 là cuộc họp đầu tiên của Bộ tứ có sự tham dự cấp cao nhất, lần đầu tiên Bộ tứ ra Tuyên bố chung đề cập trực tiếp vấn đề Biển Đông, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), an ninh biển… Hội nghị này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình thể chế hóa từng bước của Bộ tứ.

Về chính trị-an ninh, từ một cơ chế đối thoại lỏng lẻo, chưa đồng nhất cách gọi chính thức, không có bất kỳ chương trình hợp tác chung và không có tuyên bố chung, cơ chế này đã phát triển và từng bước thể chế hóa: Tất cả các thành viên đều gọi nhóm là Bộ tứ; Có sự tham gia của cấp lãnh đạo chính phủ/nguyên thủ; Có tuyên bố chung; Có hợp tác chung về quân sự (tập trận chung Malabar); Có chương trình nghị sự làm việc rõ ràng hơn khi thảo luận các vấn đề cụ thể về an ninh, kinh tế, phòng chống đại dịch Covid-19; và Khả năng các cuộc họp thượng đỉnh thường niên có thể sẽ diễn ra trong tương lai.

Về kinh tế, trong tất cả những tuyên bố, phát biểu sau các hội nghị Bộ tứ từ năm 2020 đến nay, một trong những nội dung được đề cập xuyên suốt là “hợp tác tăng cường sự linh hoạt chuỗi cung ứng toàn cầu”.

Mặc dù chưa có một cơ chế, chương trình cụ thể cho hợp tác chung về kinh tế, các thành viên đều có những dự án, chương trình và sáng kiến song phương, ba bên hoặc hợp tác, hỗ trợ cho quốc gia ngoài nhóm, chủ yếu là với các quốc gia Đông Nam Á và châu Phi về phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng.

Những hoạt động này một mặt làm sâu sắc thêm mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên, củng cố nội khối, mặt khác làm cơ sở để 4 quốc gia thành viên tiến tới thiết lập những chương trình, dự án hợp tác chung của Bộ tứ.

Về y tế, hợp tác phòng chống, sản xuất vaccine đối phó đại dịch Covid-19 là một trong 4 nội dung xuyên suốt trong các tuyên bố, đặc biệt là Tuyên bố chung Thượng đỉnh năm 2021.

Sau Thượng đỉnh, Bảng tóm tắt nội dung hợp tác chính của Bộ tứ đăng tải trên trang web Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã lên kế hoạch hợp tác cụ thể về đóng góp tài chính, hợp tác nghiên cứu, phát triển và sản xuất vaccine.

Bộ tứ mở rộng?

So với các quốc gia Đông Nam Á, các thành viên Liên minh châu Âu (EU) như Pháp, Anh có động lực và khả năng hợp tác với Bộ tứ hơn cả và có thể hình thành hợp tác mở rộng.

Pháp là có quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sau Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với 11 triệu km2 cùng 1,6 triệu dân.

Về năng lực, Pháp cũng là một trong những quốc gia EU có sức mạnh hải quân hùng mạnh nhất. Trong liên minh kinh tế-chính trị này, Pháp là nước đầu tiên khởi xướng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vào năm 2018.

Bên cạnh đó, sự can dự thực tế của Pháp diễn ra từ những năm 1990 với việc tham gia hợp tác quân sự, tập trận.

Quá trình này tiếp tục được đẩy mạnh thông qua việc: Tham gia các hội nghị khu vực; Tăng cường đối thoại 3 bên với các thành viên Bộ tứ (Pháp-Ấn-Australia, Ấn-Pháp-Nhật); Tập trận, điều tàu tuần tra tại Biển Đông; Cùng Anh, Đức (nhóm E3) ra Tuyên bố chung phản đối yêu sách hành động của Trung Quốc ở Biển Đông vào tháng 8/2019 và tháng 9/2020; và Tập trận song phương, đa phương với các thành viên Bộ tứ.

Đối với Anh, đây là đồng minh thân cận của Mỹ, đồng thời London đang có nhu cầu khẳng định lại ảnh hưởng, tạo vị thế mới sau khi rời khỏi EU.

Giống như Pháp, thực tế Anh đã có những can dự từ trước đó với khu vực như duy trì các căn cứ quân sự tại Brunei, đối thoại thường niên 2+2 với Nhật Bản, thành viên nhóm Ngũ nhãn, Ngũ cường….

Gần đây, có nhiều dấu hiệu cho thấy Anh đang hướng đến một tập hợp lực lượng những quốc gia cùng chí hướng.

Thủ tướng Anh Boris Johnson đang thúc đẩy nhóm D10 (gồm các thành viên nhóm G7 và thêm 3 thành viên được mời tham dự là Australia, Hàn Quốc và Ấn Độ). Nếu nhóm trên được hình thành, cơ chế này sẽ bao gồm toàn bộ các thành viên Bộ tứ.

Ngoài ra, Anh cũng chủ động hơn trong việc tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương như đưa ra đánh giá tổng hợp về chính sách an ninh, quốc phòng, phát triển và ngoại giao với tiêu đề “Nước Anh trong thời đại cạnh tranh Dương, trong đó xác định Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vô cùng quan trọng đối với an ninh, kinh tế và tham vọng toàn cầu của Anh; điều tàu đến khu vực để thực hiện tự do hàng hải, cùng Pháp, Đức ra tuyên bố chung phản đối yêu sách và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông vào tháng 8/2019 và tháng 9/2020, mong muốn tham gia CPTPP.

Can dự vào Biển Đông

Cùng với tiến trình thể chế hóa, các thành viên của Bộ tứ thể hiện rõ hơn lập trường pháp lý tại Biển Đông.

Năm 2020 chứng kiến “cuộc chiến công hàm” về Biển Đông tại Liên hợp quốc. Mỹ, Australia và Nhật Bản (hồi đầu năm 2021) đều bác bỏ yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông.

Việc thể hiện rõ hơn lập trường pháp lý trong vấn đề Biển Đông sẽ là nền tảng cho những phát ngôn và hành động cụ thể của các quốc gia thành viên. Xu hướng này sẽ tiếp tục được duy trì, nhất là nếu Trung Quốc tiếp tục quyết đoán ở Biển Đông.

Các thành viên Bộ tứ tiếp tục tăng cường hiện diện ở Biển Đông nhằm đảm bảo tự do hàng hải, hàng không và trật tự dựa trên luật lệ.

Năm 2020 là năm cao trào cho các hoạt động can dự thực của các nước Bộ tứ trong vấn đề Biển Đông.

Mỹ đã triển khai 39 cuộc tập huấn cùng đồng minh và đối tác tại khu vực (trong cả thời kỳ chính quyền Tổng thống Trump, Mỹ đã thực hiện 28 lần FONOP, gấp 7 lần chính quyền của ông Obama).

Tháng 4/2020, lần đầu tiên Australia tập trận với Mỹ ở Biển Đông. Tháng 5/2019, lần đầu tiên Mỹ, Nhật, Ấn Độ và Philippines tập trận chung trên Biển Đông. Đây là lần đầu tiên Ấn Độ tham gia diễn tập đa phương với Mỹ và đồng minh ở khu vực bên ngoài các diễn tập trong khuôn khổ ADMM+.

Việc Australia và Ấn Độ tham gia tập trận song phương với Mỹ hoặc đa phương với Mỹ ở Biển Đông là bước đi mới và quan trọng, cho thấy các nước tầm trung trong Bộ tứ tự tin, quyết đoán hơn khi hiện diện trực tiếp ở Biển Đông.

Các nước thành viên Bộ tứ tăng cường hợp tác nâng cao năng lực biển cho các nước khu vực. Hợp tác nâng cao năng lực là lĩnh vực mà các thành viên Bộ tứ đã, đang và sẽ tiếp tục duy trì, nhất là với Việt Nam, Philippines và Indonesia.

Các lĩnh vực chủ yếu bao gồm: Tín dụng ưu đãi quốc phòng, huấn luyện quân nhân cả về phần cứng và phần mềm, bảo trì và sửa chữa vũ khí (Ấn Độ); Hỗ trợ cung cấp trang thiết bị như tàu tuần tra, chấp pháp biển (Nhật Bản, Mỹ); Hỗ trợ học bổng đào tạo nguồn nhân lực về luật biển, sĩ quan (Australia, Ấn Độ); Thăm viếng hải quân, thao diễn, hợp tác chống cướp biển, khủng bố, cứu hộ cứu nạn, xử lý sự cố tràn dầu (Ấn Độ, Nhật Bản, Australia); Đối thoại chiến lược biển song phương (Ấn Độ, Australia, Nhật Bản), kinh tế biển xanh và quản lý vùng bờ (Ấn Độ, Nhật Bản, Australia); Hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí (Ấn Độ, Nhật Bản, Australia); và Phát triển cơ sở hạ tầng cảng biển (Ấn Độ).

Sự phát triển của Bộ tứ có thể là nguyên nhân khiến Trung Quốc điều chỉnh chương trình nghị sự trọng điểm phù hợp hơn với khu vực.

Trung Quốc thúc đẩy xây dựng hợp tác kinh tế song phương, tiểu đa phương và đa phương với Nhật Bản, Australia, Ấn Độ và các nước khác trong khu vực, cải thiện hành vi trong BRI ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, xóa bỏ hoài nghi đây là công cụ “bẫy nợ” của Trung Quốc: Giảm mức độ khai thác kinh tế và tìm kiếm lợi ích chính trị; Đưa ra mức lãi suất thấp; Loại bỏ các điều kiện mang tính cưỡng ép về chính trị đồng thời tăng lợi ích cho quốc gia nhận đầu tư; Cải tổ lại các hành vi đầu tư và đàm phán lại hợp đồng với một số nước, ví dụ như với Myanmar.

Trung Quốc cũng tiếp tục chú trọng kêu gọi hợp tác phát triển tại Biển Đông. Mặt khác, nhiều ý kiến cũng cho rằng, sự phát triển của Bộ tứ cũng khiến Trung Quốc lo ngại và có các hành động mang tính răn đe và quyết đoán đối với khu vực.

(theo Nghiên cứu Biển Đông)