Có thể nói Biển Đông là vùng biển có vị trí chiến lược quan trọng số một ở châu Á bởi đây là nơi trấn giữ nhiều tuyến đường hàng hải trọng yếu đối với nhiều quốc gia trong khu vực, xét trên cả khía cạnh an ninh lẫn kinh tế. Ước tính tổng giá trị hàng hoá được vận chuyển qua vùng biển này mỗi năm lên tới 5.000 tỷ USD và có tới 11 tỷ thùng dầu thô cùng 190.000 tỷ mét khối khí ga tự nhiên nằm dưới đáy Biển Đông đang chờ được khai thác. Chính vì vậy, tất cả các quốc gia trong khu vực đều có những lợi ích rất lớn ở Biển Đông và do đó, mọi tranh chấp trên vùng biển này đều có nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang nếu không được quản trị một cách khéo léo.
Trong các bên có tranh chấp ở Biển Đông, Trung Quốc có lập trường cứng rắn nhất và cũng là nước có sức mạnh vượt trội nhất cả về mặt kinh tế, chính trị lẫn quân sự. Việt Nam sẽ chịu thiệt hại lớn nếu chiến tranh xảy ra và do đó, đánh giá chính xác khả năng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông và tìm các phương sách để bảo vệ hoà bình ở Biển Đông là một trong những ưu tiên hàng đầu của các Ngoại giao Việt Nam tại thời điểm này.
Ít khả năng sử dụng vũ lực
Việc Trung Quốc có sử dụng vũ lực ở Biển Đông hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào giá trị của vùng biển này đối với họ. Rõ ràng, với vị trí là cửa ngõ yết hầu ở Đông Nam Á cùng các tài nguyên ở đây, toàn bộ khu vực Biển Đông và các đảo, bãi đá và bãi cạn đều có giá trị rất lớn đối với Trung Quốc về mặt an ninh, chiến lược, kinh tế và chính trị. Tuy Trung Quốc đã nhiều lần thoả hiệp trong các tranh chấp lãnh thổ trước đây, nhưng vì Biển Đông có giá trị quá lớn về mọi mặt nên Trung Quốc sẽ khó lòng nhượng bộ trừ khi họ không còn cách nào khác, tức khi họ đã suy yếu đến mức không thể duy trì yêu sách chủ quyền của mình.
Tác giả trả lời phỏng vấn báo chí sau lễ khai mạc Chương trình mô phỏng Liên hợp quốc VY-MUN 2016, tháng 8/2016. |
Trung Quốc sẽ cảm thấy cần sử dụng vũ lực khi vị thế đàm phán của họ bị suy yếu rõ rệt và họ đứng trước nguy cơ mất toàn bộ Biển Đông. Tuy nhiên, tới thời điểm này, vị thế đàm phán của Trung Quốc vẫn tương đối vững vàng và ổn định. Nhiều khả năng vị thế này sẽ còn mạnh lên trong thời gian trước mắt do họ đang nhanh chóng củng cố khả năng kiểm soát các đảo ở Biển Đông đã chiếm trái phép bằng việc xây dựng các căn cứ quân sự và hiện đại hoá hải quân. Hơn nữa, cho đến giờ, các bên còn lại trong cuộc tranh chấp như Việt Nam và Philippines vẫn còn khá mềm mỏng với Trung Quốc và luôn cố gắng tránh các động thái có thể khiêu khích hay đột ngột làm suy yếu vị thế đàm phán của Bắc Kinh.
Mới đây, Toà Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 đã ra phán quyết bất lợi cho Trung Quốc. Tuy nhiên, nước này đã lập tức tẩy chay phán quyết, trong khi các nước được hưởng lợi từ phán quyết như Philippines hay Việt Nam vẫn hành xử tương đối kiềm chế cũng như chưa sử dụng phán quyết để gây sức ép lên Trung Quốc. Chính vì vậy, phán quyết chưa ảnh hưởng quá nhiều đến vị thế đàm phán của Trung Quốc trên Biển Đông, nhất là khi sức mạnh của họ trên thực địa không hề bị giảm sút.
Cuối cùng, khi có nhiều vấn đề nội bộ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ muốn hướng sự chú ý của người dân ra bên ngoài. Trong tương lai gần, Trung Quốc có thể chưa phải đối mặt với nhiều mối đe doạ an ninh từ bên ngoài, mà chính là thách thức an ninh tiềm tàng ở trong nước. Mặc dù vậy, những vấn đề nội bộ Trung Quốc đã có từ lâu và trừ khi có một diễn biến quá bất ngờ thì mới có khả năng bùng phát thành một cuộc khủng hoảng quy mô lớn.
Dựa vào ba nhận định trên, có thể kết luận rằng khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực ở Biển Đông để giải quyết tranh chấp trong thời gian tới là tương đối thấp. Họ sẽ giữ vững lập trường không thoả hiệp và không hợp tác nhưng khi vị thế của họ vẫn vững vàng và tình hình đối nội Trung Quốc chưa có gì biến động mạnh, thì chưa có lý do gì buộc họ phải sử dụng vũ lực ở Biển Đông.
Cần đối sách phù hợp
Để bảo vệ hoà bình ở Biển Đông, các quốc gia trong khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng cần theo đuổi một chính sách ngoại giao mềm mỏng nhưng vững vàng và toàn diện để vừa hạn chế các hành động đơn phương của Trung Quốc vừa trấn an nước này đồng thời nâng cao năng lực phòng vệ của bản thân, từ đó góp phần tăng khả năng ngăn ngừa chiến tranh nổ ra ở Biển Đông.
Thứ nhất, các quốc gia có liên quan tới tranh chấp Biển Đông nói chung và Việt Nam nói riêng cần tránh ở mức độ tối đa việc đưa ra những thay đổi đột ngột trong chính sách an ninh, quân sự và ngoại giao, nhất là những chính sách liên quan trực tiếp tới Biển Đông để Trung Quốc không cảm thấy vị thế đàm phán của họ bị suy yếu một cách đột ngột bởi điều này có thể khiến Bắc Kinh kết luận rằng dùng vũ lực là biện pháp cuối cùng của họ để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Hướng về Biển Đông. |
Thứ hai, về mặt quốc phòng, chúng ta cần tiếp tục hiện đại hoá quân đội và đầu tư trang bị các loại vũ khí tối tân cho lực lượng hải quân, nhằm gia tăng sức mạnh phòng vệ của mình. Cụ thể, chúng ta cần tăng cường đầu tư tàu ngầm và các hệ thống phòng thủ tên lửa bờ biển để tối đa hoá chi phí và tổn thất cho bất kì quốc gia nào quyết định sử dụng vũ lực để chiếm đảo của chúng ta ở Biển Đông. Khi biết rõ không thể giành được chiến thắng một cách nhanh chóng với chi phí thấp trên biển, khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực sẽ thấp hơn.
Thứ ba, Việt Nam cần duy trì các chính sách ngoại giao hiện nay. Bên cạnh đó, chúng ta cần đẩy mạnh hợp tác toàn diện, trong đó có hợp tác quốc phòng với các quốc gia khác trong khu vực, đặc biệt là Mỹ, Nhật, Philippines và Ấn Độ. Chỉ cần chúng ta kiềm chế được khuynh hướng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông và tối đa hoá chi phí, tổn thất mà họ sẽ phải trả cho bất kỳ xung đột vũ trang nào ở Biển Đông, sớm muộn ít nhất Trung Quốc cũng sẽ phải thoả hiệp.
Cuối cùng, Việt Nam cần đẩy mạnh vai trò của mình trong ASEAN và thúc đẩy việc cải cách ASEAN. ASEAN là cầu nối hết sức quan trọng giữa các quốc gia trong khu vực và khi các quốc gia này đoàn kết, khả năng kiềm chế tham vọng của Trung Quốc sẽ tăng lên.
Tuy khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông trong tương lai gần là khá thấp, song đây là một mối hiểm họa chưa thể loại trừ và chúng ta cần phải có những đối sách phù hợp nhằm gìn giữ hoà bình ở Biển Đông. Đối với Việt Nam, chính sách phù hợp nhất hiện tại để vừa giảm thiểu khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực ở Biển Đông, là một chính sách ngoại giao linh hoạt nhưng vững vàng, khuyến khích mặt hợp tác và từng bước khiến Trung Quốc cư xử phù hợp với luật pháp quốc tế trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.