Khủng hoảng năng lượng đang dồn kinh tế Đức tới chân tường, các nhà sản xuất ô tô lớn có thể bị buộc phải giảm quy mô hoặc thậm chí đóng cửa các cơ sở sản xuất tại Đức. (Nguồn: Bloomberg) |
Bộ trưởng Kinh tế Đức Robert Habeck mới được giao nhiệm vụ khó khăn là đảm bảo ánh sáng không bị tắt ở nền kinh tế lớn nhất châu Âu.
Nhưng dù hiện nay, khi người dân Đức đã ý thức về việc tích trữ nến và bếp cắm trại, giống như cách đây không lâu họ đã làm với giấy vệ sinh và mì ống trong giai đoạn đại dịch Covid-19, thì phát biểu trước Hạ viện mới đây của Bộ trưởng Habeck rằng "chúng tôi hiện đã độc lập với khí đốt của Nga trong một tuần" vẫn có điều gì đó không chắc chắn, khó làm người dân cảm thấy yên lòng. Tình trạng mất điện không phải là vấn đề viển vông kể từ khi Nga đóng cửa đường ống Nord Stream 1 hơn một tuần trước.
Trách nhiệm nặng nề đang đặt lên vai Bộ trưởng Habeck, ông buộc phải cố gắng giữ cho nền kinh tế tiếp tục phát triển trong bối cảnh những dự đoán u ám rằng, chi phí năng lượng tăng cao và lạm phát cao, đang và sẽ tiếp tục đẩy kinh tế Đức rơi vào suy thoái vào năm tới. Trong khi, không phải ông, hay nước Đức, mà là Tổng thống Nga Putin mới là người nắm trong tay nguồn năng lượng và khí đốt quan trọng.
Biểu hiện của một vấn đề rất lớn
"Mặc dù chưa chính thức, nhưng tôi vẫn muốn nói rằng chúng tôi đang trong quá trình tổ chức di dời các cơ sở sản xuất ra ngoài Liên minh châu Âu (EU)". Đó là lời phàn nàn của một chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyên sản xuất các loại thủy tinh đặc biệt, đang sử dụng 350 nhân viên và rất nổi tiếng trong một vùng ở nước Đức. Họ đang chuẩn bị "cuốn gói" khỏi Đức và xa hơn nữa là rời châu Âu.
Chủ doanh nghiệp này cho biết: "Giá xăng cao gấp 10 lần so với trước khủng hoảng. Chúng tôi không thể gánh những chi phí này trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Một lò thủy tinh muốn hoạt động phải được giữ nhiệt liên tục ở 1.700°C. Nếu nhiệt độ giảm xuống, nhà máy bị phá hủy và chỉ đơn giản như vậy. Và vì giá xăng ít nhiều giống nhau ở mọi nơi ở châu Âu, chúng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc rời đi".
Ông chủ này cho rằng, "mọi chính sách năng lượng của Đức trong những năm gần đây dường như đã thất bại".
Rất hiếm khi một đại diện của giới doanh nghiệp Đức, đặc biệt là những công ty làm nên "xương sống" của nền kinh tế Đức, lại công khai bày tỏ sự tức giận như vậy. Và tiếc rằng, ông chủ doanh nghiệp này "không phải là người duy nhất" cảm thấy mình đang bị đẩy đến bờ vực thẳm.
Đó là những gì đang diễn ra bên trong nền kinh tế số 1 châu Âu. Có lẽ mô hình kinh tế dựa vào năng lượng và nguyên liệu giá rẻ của Đức đã đạt đến giới hạn?
Đầu tháng Chín, tập đoàn thép ArcelorMittal thông báo đóng cửa hai địa điểm sản xuất bên bờ sông Rhine. Và ba công ty nổi tiếng là nhà sản xuất giấy vệ sinh Hakle, nhà cung cấp ô tô Dr. Schneider và chuỗi cửa hàng giày Görtz lần lượt tuyên bố phá sản.
Cuối tháng Tám, Siegfried Russwurm, Chủ tịch Liên đoàn các nhà công nghiệp Đức (BDI), đã cảnh báo: "Thành phần cốt lõi của công nghiệp Đức đang bị đe dọa". Đề cập đến mức tiêu thụ khí đốt trong lĩnh vực công nghiệp giảm 21% trong tháng 7/2022 so với mức một năm trước, ông chỉ rõ đây không phải là điều gì đáng khích lệ, mà nó phản ánh "sự sụt giảm nghiêm trọng trong sản xuất". "Đó không phải là một thành công, mà là biểu hiện của một vấn đề rất lớn".
Điều tồi tệ nhất có lẽ vẫn chưa đến?
Trong ngắn hạn, hầu hết các chuyên gia kinh tế đều nhất trí rằng, Đức sẽ bước vào suy thoái ngay từ mùa Thu này. Ngày 12/9, Viện nghiên cứu kinh tế Ifo đã hạ 4 điểm dự báo tăng trưởng cho năm 2023, đồng thời quy mô hoạt động sẽ thu hẹp 0,3%.
Trong khi đó, Viện Kinh tế Thế giới Kiel (IfW) công bố dự báo suy thoái 0,7% cho năm 2023.
So với các nước láng giềng châu Âu, Đức trì trệ hơn do tỷ trọng nền kinh tế dành cho ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào thị trường bên ngoài hơn. Bị ảnh hưởng bởi sự gián đoạn chuỗi cung ứng và giá năng lượng tăng cao, sản xuất tại Đức đang ngày càng đình trệ mặc dù vẫn có nhiều đơn hàng. Và tiêu dùng trong nước đang chịu gánh nặng lạm phát, không thể bù đắp cho những thiệt hại này.
Nhưng điều tồi tệ nhất có lẽ vẫn chưa đến. Bởi sự suy thoái này, lẽ ra phải nhẹ hơn nhiều so với những gì kinh tế Đức phải trải qua trong thời kỳ đại dịch Covid19, chỉ là khúc dạo đầu cho một quãng thời gian dài thích ứng với tình hình toàn cầu mới. Các trụ cột chính của "sản xuất tại Đức", gồm tự do thương mại và ổn định tương đối về địa chính trị, đã bị đảo lộn.
Nga - nguồn cung cấp năng lượng hàng đầu của Đức, hiện đã ngừng cung cấp khí đốt. Và Trung Quốc, đối tác thương mại hàng đầu của Đức, đang ngày càng bộc lộ những dấu hiệu đóng cửa. Sau những năm 2010 thịnh vượng phi thường, nước Đức giờ đây đang chờ đợi một bức tranh khác hẳn trong vài năm tới.
Trên mục podcast của nhật báo Handelsblatt trong một số ra cuối tháng Tám, nhà kinh tế học Bert Rürup nhận định: "Đức là người chiến thắng trong làn sóng toàn cầu hóa sau khi Liên Xô sụp đổ và sự gia nhập của Trung Quốc vào nền thương mại thế giới. Nhưng Đức hiện đang bước đến cuối chu trình này".
Mô hình thành công của Đức, dựa trên việc nhập khẩu với giá rẻ nhiên liệu hóa thạch, nguyên liệu thô và các sản phẩm trung gian, rồi chuyển thành ô tô, máy móc và hóa chất tại trong nước trước khi xuất khẩu đi nơi khác, đã đạt đến giới hạn.
Chuyên gia kinh tế học Michael Hüther, Giám đốc Viện nghiên cứu kinh tế Đức, cũng thừa nhận trên cùng một podcast: "Tôi ngày càng cảm thấy bi quan về thập kỷ tới. Chúng ta sẽ thấy những căng thẳng rộng khắp về sự thịnh vượng của đất nước trong những năm tới. Chúng ta có thể hài lòng nếu duy trì được sự giàu có ở mức tương đương".
Khủng hoảng đã làm nổi bật một cách tàn nhẫn những điểm yếu về cơ cấu của kinh tế Đức. Ngoài giá năng lượng có lẽ vẫn duy trì ở mức cao trong một thời gian dài, nền kinh tế số một khu vực đồng Euro (Eurozone) sẽ bị trừng phạt bởi hàm lượng carbon cao trong sản xuất, bộ máy chậm chạp, số hóa thấp và sự cũ kỹ của cơ sở hạ tầng giao thông.
Đức sẽ phải dành một phần đáng kể của cải cho các khoản đầu tư khôi phục khả năng cạnh tranh của mình. Với điều kiện có đầy đủ nhân lực, bởi các thế hệ sinh ra sau chiến tranh bước vào tuổi nghỉ hưu sẽ làm tiêu tan quy mô dân số có khả năng làm việc.
Đối với ông Stefan Kooths, Phó chủ tịch IfW, "việc làm sẽ đạt đỉnh cao vào năm 2023, với 45,6 triệu người ở tuổi lao động. Trung bình mỗi năm, thị trường việc làm Đức sẽ mất đi 130.000 lao động. Nói cách khác, chi phí vận hành của "sản xuất tại Đức" sẽ rất tốn kém trong một thời gian dài.
Gabriel Felbermayr, Chủ tịch Viện nghiên cứu kinh tế Áo, nhận xét: "Các công ty Đức hiện đang có ý định chuyển sản xuất đến những nơi khác bằng cách tổ chức lại các mạch thầu phụ càng tới gần khách hàng càng tốt, chẳng hạn như ở Trung Quốc và Mỹ. Đó là điều rất đáng lo ngại".
Tuy nhiên, nhìn nhận kinh tế Đức ở một góc độ tươi sáng hơn, Marcel Fratzscher, Chủ tịch viện DIW ở Berlin, đánh giá: "Rất có thể một số công ty sẽ phá sản hoặc phải chuyển địa điểm. Đức sẽ mất 4-5 năm khó khăn, đòi hỏi nhiều vốn và đầu tư, cả ở khu vực nhà nước và tư nhân, cho lĩnh vực năng lượng tái tạo, khử carbon, kỹ thuật số. Nhưng nếu thành công, Đức có thể có lợi thế cạnh tranh thực sự sau vài năm".