📞

Luật cư trú năm 2020: Đổi mới để phục vụ nhân dân

TỐNG ĐỨC CƠ 14:00 | 29/03/2021
Luật cư trú (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2020, có hiệu lực từ ngày 1/7/2021 thực sự tạo bước chuyển biến lớn trong việc nâng cao sự thuận tiện, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Cư trú (sửa đổi). (Nguồn: TTXVN)

Tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật về cư trú với những quy định cụ thể như về điều kiện, thủ tục đăng ký cư trú…

Luật cư trú (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2020, có hiệu lực từ ngày 1/7/2021 thực sự tạo bước chuyển biến lớn trong việc nâng cao sự thuận tiện, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân, đặc biệt là tiếp cận phù hợp với quá trình chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm tốt hơn quyền tự do cư trú của công dân.

Cùng với các quyền bầu cử, ứng cử, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật thư tín, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí… thì quyền tự do cư trú được Hiến pháp năm 2013 quy định là quyền con người, quyền công dân được Nhà nước công nhận, tôn trọng và bảo vệ.

Việc quản lý cư trú của nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền tự do cư trú của công dân nên việc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do cư trú của công dân và việc quản lý cư trú theo hướng quy định công khai, minh bạch, đơn giản hóa giấy tờ, giảm thời gian, chi phí, xóa bỏ các thủ tục hành chính rườm rà, dễ bị lợi dụng để gây phiền hà cho người dân trong việc thực hiện quyền tự do cư trú.

Thực hiện chủ trương hiện đại hóa và đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến công tác quản lý dân cư, đồng thời bảo đảm tốt hơn nữa tính công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật về cư trú bảo đảm phù hợp với chủ trương cải cách hành chính và tiến trình hội nhập, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, đồng thời tăng cường việc bảo đảm hơn nữa quyền tự do cư trú của công dân, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự trong tình hình mới, thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến việc đăng ký cư trú của công dân, Luật cư trú năm 2020 được xây dựng và chính thức được Quốc hội đã thông qua ngày 13/11/2020, Luật có hiệu lực từ ngày 01/7/2021 với nhiều quy định thể hiện việc bảo đảm tốt hơn nữa quyền tự do cư trú của công dân, thể hiện trong nhiều nội dung mới.

Quản lý khoa học, cắt giảm thủ tục hành chính

Thứ nhất, bãi bỏ hình thức quản lý dân cư bằng Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú và thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú.

Luật Cư trú 2020 thay thế việc quản lý cư trú (thường trú, tạm trú) từ phương thức thủ công bằng sổ giấy sang phương thức quản lý hiện đại bằng công nghệ thông tin.

Cụ thể là quản lý bằng việc sử dụng mã số định danh cá nhân để truy cập, cập nhật, điều chỉnh trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chạy trên mạng Internet. Thông tin về nơi thường trú, nơi tạm trú của mỗi công dân đều là trường thông tin dữ liệu số được cập nhật, điều chỉnh trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về cư trú.

Để thực hiện các quy định này, Luật Cư trú năm 2020 đã bãi bỏ các quy định về Sổ Hộ khẩu, Sổ Hộ khẩu cấp cho hộ gia đình, Số Hộ khẩu cấp cho cá nhân, tách Sổ Hộ khẩu, Giấy chuyển hộ khẩu, điều chỉnh những thay đổi trong Sổ Hộ khẩu tại Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013), đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số quy định khác có liên quan đến Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú như: Các hành vi bị nghiêm cấm (thuê, cho thuê, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú…); quyền được cấp, cấp lại, đổi Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú, trách nhiệm xuất trình Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú khi cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu; trách nhiệm cấp Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú của cơ quan đăng ký, quản lý cư trú…

Bên cạnh đó, Luật Cư trú năm 2020 đã bổ sung cụ thể các quy định về thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú bằng phương thức mới thông qua mã số định danh cá nhân của công dân và các thông tin về nơi thường trú, nơi tạm trú được cập nhật, điều chỉnh trên Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, theo đó, cơ quan đăng ký, quản lý cư trú có trách nhiệm thẩm định, cập nhật thông tin địa chỉ thường trú, tạm trú mới của người đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và thông báo cho người đăng ký về việc đã cập nhật thông tin đăng ký thường trú, tạm trú (không cấp Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú giấy).

Luật cư trú năm 2020, bãi bỏ hình thức quản lý dân cư bằng Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú và thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân.

Thứ hai, quy trình, thủ tục đăng ký cư trú theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính

Hiện nay, các quy định của Luật Cư trú hiện hành về điều kiện, thủ tục đăng ký cư trú đã tương đối cụ thể, rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, tự do lựa chọn nơi cư trú.

Tuy nhiên, về trình tự, thủ tục đăng ký cư trú vẫn còn mang tính thủ công, rườm rà, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, nhất là sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30/10/2017 về đơn giản hóa về thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, trong đó có phương án bãi bỏ hình thức quản lý dân cư bằng Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú và thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân cập nhận thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì việc thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký cư trú cho công dân cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với thình thức quản lý mới cũng như yêu cầu quản lý dân cư trong tình hình mới, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân khi thực hiện thủ tục đăng ký cư trú cũng như tạo ra sự chuyển biến căn bản trong quan hệ giải quyết thủ tục đăng ký cư trú giữa cơ quan nhà nước với người dân.

Việc thực hiện quản lý dân cư thông qua phương thức mới bằng mã số định danh cá nhân trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú sẽ dẫn đến việc bãi bỏ các nhóm thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký, quản lý thường trú, tạm trú của công dân quy định tại Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013).

Cụ thể: Luật Cư trú năm 2020 đã bỏ toàn bộ các thủ tục về: Cấp đổi Sổ Hộ khẩu; Cấp lại Sổ Hộ khẩu; Cấp giấy chuyển hộ khẩu; Cấp đổi Sổ Tạm trú; Cấp lại Sổ Tạm trú; Điều chỉnh những thay đổi trong sổ tạm trú; Gia hạn tạm trú. Đồng thời, Luật Cư trú 2020 đã sử đổi, bổ sung các thủ tục theo hướng tách Sổ Hộ khẩu (được xác định theo hướng đây là việc tách hộ gia đình và được thực hiện bằng việc điều chỉnh, cập nhật trường thông tin về chủ hộ, quan hệ với chủ hộ trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú); Điều chỉnh những thay đổi trong Sổ Hộ khẩu; Xóa đăng ký thường trú khi công dân đăng ký nơi thường trú mới (việc làm này do cơ quan đăng ký, quản lý cư trú tự thực hiện khi cập nhật, điều chỉnh thông tin về nơi cư trú của công dân trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú; Xác nhận việc trước đây đã đăng ký thường trú; Hủy bỏ kết quả đăng ký thường trú và Đăng ký tạm trú trái pháp luật.

Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết, việc xây dựng Luật Cư trú bảo đảm phù hợp với quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quản lý cư trú và chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư. Tạo khuôn khổ pháp lý hữu hiệu để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống, làm ăn; trình tự, thủ tục đăng ký đơn giản, thuận tiện, kịp thời, công khai, minh bạch, không gây phiền hà, tiêu cực; đồng thời, bảo đảm cho công tác đăng ký, quản lý cư trú có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.

Tạo thuận lợi hơn cho quyền cư trú

Trước hết, Luật Luật Cư trú năm 2020 giảm thời gian giải quyết đăng ký thường trú. Quy định bỏ Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú giấy nên thời gian giải quyết đăng ký thường trú sẽ nhanh hơn so với quy định hiện nay.

Cụ thể, theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Luật Cư trú 2020 thì “Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thẩm định, cập nhật thông tin về nơi thường trú mới của người đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú và thông báo bằng văn bản cho người đăng ký về việc đã cập nhật thông tin đăng ký thường trú” thay vì quy định 15 ngày (khoản 3 Điều 21 Luật Cư trú năm 2006).

Bên cạnh đó, không còn quy định điều kiện riêng khi đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là một trong những vấn đề đáng chú ý đối với việc bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân trong Luật Cư trú 2020.

Theo đó, khi công dân muốn đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương (đặc biệt là TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) thì không còn bị phân biệt về điều kiện đăng ký theo quy định tại Điều 20 Luật Cư trú năm 2006 mà thay vào đó, các điều kiện đăng ký cư trú được áp dụng chung, thống nhất trên toàn quốc (áp dụng chung cho cả các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương) được quy định tại Điều 21 Luật Cư trú 2020, các quy định về điều kiện đăng ký thường trú mới tạo sự bình đẳng trong việc quản lý cư trú của mọi công dân, góp phần tốt hơn nữa trong việc bảo đảm về quyền tự do cư trú của công dân.

Ngoài ra, công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn hoặc ở nhờ. Theo Luật Cư trú năm 2020 thì công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ nếu bảo đảm hai điều kiện là: (1) Được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý cho đăng ký thường trú tại địa điểm thuê, mượn, ở nhờ và (2) Bảo đảm điều kiện về diện tích nhà ở tối thiểu do Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định nhưng không dưới 8m² sàn/người.

Đây là quy định thể hiện việc bảo đảm tốt hơn hơn nữa quyền tự do cư trú của công dân trong điều kiện công dân đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình và đây cũng là một trong những nội dung mới so với Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013).

Như vậy, qua một số nội dung lớn nêu trên cho thấy, Luật Cư trú năm 2020 đã thể hiện một bước tiến mới trong việc bảo đảm tốt hơn nữa quyền tư do cư trú của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013.

Qua các quy định của Luật cho thấy, Luật Cư trú năm 2020 thể hiện chủ trương hiện đại hóa và đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến công tác quản lý dân cư, đồng thời bảo đảm tốt hơn tính công khai, minh bạch, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công dân khi thực hiện quyền tự do cư trú, qua đó hoàn thiện hệ thống pháp luật về cư trú phù hợp với chủ trương cải cách hành chính và tiến trình hội nhập, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.