TIN LIÊN QUAN | |
Tại sao Bali? | |
Cần lan tỏa sức mạnh của văn hóa |
Đại sứ Phạm Sanh Châu.(Ảnh: Tuan Anh) |
Ngoại giao Văn hóa (NGVH) được coi là một trụ cột của nền Ngoại giao toàn diện Việt Nam, đâu là trọng tâm của công tác này trong thời gian tới, thưa Trợ lý Bộ trưởng?
Năm 2011, Chiến lược NGVH đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ ban hành đề ra các định hướng, trọng tâm cụ thể làm nền tảng giúp NGVH trong thời gian qua đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Hiện nay, Bộ Ngoại giao đã bước đầu tổng kết, đánh giá biện pháp, cách làm nào tốt để pháp huy, cách làm nào chưa phù hợp để điều chỉnh hoặc loại bỏ, từ đó tiến tới bổ sung cho Chiến lược trong giai đoạn sau 2020. Theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đối với Ngành ngoại giao, nhiệm vụ chính của NGVH trong thời gian tới cũng sẽ nằm trong nhiệm vụ tổng thể của cả Ngành ngoại giao, đó là phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển của đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ này, ngoại giao văn hóa sẽ tập trung vào 5 nội dung sau:
Một là, xây dựng kế hoạch NGVH gắn kết chặt chẽ hơn nữa với các mục tiêu đối ngoại, yêu cầu chính trị, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa; tiếp tục đẩy mạnh việc đưa nội hàm NGVH vào các chương trình hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp cao cũng như của các bộ, ngành, địa phương.
Hai là, tiếp tục tham mưu xây dựng cơ chế chính sách, tạo dựng môi trường, đồng hành và hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, người dân triển khai NGVH, trong đó có việc xây dựng hình ảnh quốc gia, thương hiệu địa phương, qua đó thu hút du lịch, đầu tư, cũng như đưa sản phẩm của Việt Nam ra quốc tế.
Ba là, tích cực tham gia có trách nhiệm và hiệu quả tại các tổ chức, diễn đàn đa phương về văn hóa, qua đó tận dụng ý tưởng, trí tuệ, nguồn lực cho phát triển đất nước và nâng cao vai trò, xây dựng hình ảnh Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Bốn là, vận động các danh hiệu quốc tế, học hỏi mô hình bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa; tăng cường tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và nhất là đóng góp vào việc định hướng, xây dựng chính sách lớn của quốc gia.
Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo và phát hiện những xu hướng lớn về NGVH, về giáo dục, khoa học, xã hội..., từ đó nắm bắt cơ hội và chủ động đối phó với thách thức. Ngoài ra, chú trọng công tác rà soát, đôn đốc việc triển khai “Chiến lược NGVH đến năm 2020” và việc thực hiện các thỏa thuận quốc tế về lĩnh vực văn hóa giữa Việt Nam với các nước.
Ông có thể chia sẻ về vai trò, vị trí của NGVH trong việc xây dựng thông điệp quốc gia, thương hiệu địa phương?
Xây dựng thông điệp quốc gia và thương hiệu địa phương không còn là câu chuyện mới trên thế giới. Rất nhiều quốc gia đã và đang tiến hành, trong đó nhiều quốc gia xây dựng thành công thông điệp nổi bật, ghi đậm dấu ấn trong nhận thức của người dân toàn cầu.
Khi bạn nghĩ tới Paris lãng mạn, Tokyo hiện đại, Hongkong sôi động, Bhutan thanh bình, Singapore năng động... Đấy là ví dụ về một vài thông điệp địa phương mà các quốc gia đã xây dựng và truyền tải thành công tới người dân toàn cầu. Ở Việt Nam, xây dựng thông điệp quốc gia hay thương hiệu địa phương tuy đã có những bước đi ban đầu nhưng vẫn còn nhiều điều mới mẻ đối với cả chính quyền, doanh nghiệp lẫn người dân.
NGVH những năm gần đây đã có đóng góp thiết thực trong quá trình xây dựng thông điệp quốc gia và thương hiệu địa phương. Bên cạnh việc chuyển tải tới bạn bè quốc tế hình ảnh về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, thân thiện, cởi mở, một dân tộc Việt Nam anh dũng, nhân văn, một nền văn hóa đậm đà bản sắc, một quốc gia có nhiều di sản..., NGVH đã xây dựng, gìn giữ và lan tỏa hình ảnh của người Việt Nam tiêu biểu thông qua đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài”. Đây là cách làm của nhiều quốc gia trên thế giới khi đưa hình ảnh của lãnh tụ thành biểu tượng thể hiện hoài bão, tâm thế, ý chí của cả một dân tộc.
Ngoài ra, NGVH góp phần đưa các thương hiệu du lịch, thương hiệu sản phẩm của Việt Nam đến với đông đảo bạn bè quốc tế. Thông qua các hoạt động giao lưu, trao đổi, tiếp xúc đối ngoại, xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước, NGVH hỗ trợ, đồng hành cùng địa phương trong nhiều chương trình lễ hội quốc tế như Festival Huế, Festival hoa Đà lạt, Festival pháo hoa Đà Nẵng… Việc xây dựng thông điệp quốc gia và thương hiệu địa phương là quá trình dài, cần có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa khối công và tư, giữa trung ương và địa phương để huy động thành công sức mạnh tổng thể.
Ông đánh giá quan hệ hợp tác Việt Nam - UNESCO có đóng góp như thế nào cho NGVH?
UNESCO được thành lập vào năm 1945 với tôn chỉ “Chiến tranh nảy sinh từ ý nghĩ của con người. Vì vậy, cần xây dựng thành lũy hòa bình trong chính tâm trí của con người”. Cùng chung ý tưởng nhân văn đó, Việt Nam đã chính thức tham gia UNESCO ngay sau khi thống nhất đất nước (1976). Vào thời điểm đó, UNESCO là kênh ngoại giao đa phương duy nhất giúp Việt Nam mở cửa ra với thế giới, khai thông quan hệ với các nước, giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về đất nước và con người Việt Nam.
UNESCO là diễn đàn giúp Việt Nam bảo vệ lợi ích, nâng cao vị thế và uy tín quốc gia, chủ động triển khai có hiệu quả hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa. Việt Nam bốn lần được tín nhiệm bầu vào Hội đồng chấp hành UNESCO, một lần vào Ủy ban Di sản Thế giới, đã và đang có đại diện tại các tổ chức, chương trình chuyên môn quan trọng của UNESCO, thể hiện Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm, sẵn sàng tham gia đảm nhận những vị trí trọng trách. Việt Nam đã từng tham gia xây dựng luật chơi mới tại UNESCO khi đề xuất thành công quy trình mới liên quan đến việc chuyển một di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại (Hát Xoan).
Trong quá trình hợp tác hơn 40 năm qua, Việt Nam đã phát huy tốt “chất xám” của UNESCO - tổ chức được coi là “Ngôi nhà trí tuệ” của thế giới, tiếp thu kinh nghiệm và thu hút các nguồn tài chính quốc tế phục vụ phát triển đất nước, xây dựng chính sách và hoàn thiện hệ thống pháp lý, thay đổi tư duy và nâng cao năng lực trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học và thông tin-truyền thông.
UNESCO cũng là “kênh” NGVH quan trọng, góp phần quảng bá hữu hiệu về đất nước và con người Việt Nam thông qua việc công nhận 38 danh hiệu thế giới tại Việt Nam và ra Nghị quyết tham gia kỷ niệm các danh nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Hồ Chí Minh. Chúng ta tin rằng sự tương đồng giữa các nội dung của đường lối đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam với các phương hướng hoạt động của UNESCO là cơ sở quan trọng cho tương lai tốt đẹp của mối quan hệ này.
Là người gắn bó với NGVH trong suốt 10 năm qua, ông tâm đắc điều gì nhất với công tác này và có nhắn nhủ gì với đội ngũ làm NGVH hiện nay?
Tôi tâm đắc hai việc thể hiện vai trò của Ngoại giao Văn hóa ngày nay.
Thứ nhất là việc đưa NGVH trở thành một trụ cột trong chính sách ngoại giao toàn diện của Việt Nam năm 2006 tại HNNG lần thứ 25. Đây là một bước ngoặt quan trọng với NGVH khi Nguyên Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm là người rất quan tâm đến NGVH sau đó đã chọn năm 2009 là “Năm Ngoại giao Văn hóa” để tạo động lực nâng cao nhận thức và thúc đẩy triển khai NGVH thiết thực. Sau nỗ lực đó, Bộ Ngoại giao đã hình thành và trình Thủ tướng Chính phủ thông qua Chiến lược về Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020.
Thứ hai là triển khai Đề án Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với công tác NGVH được trực tiếp chỉ đạo của Ban Bí thư. Cho đến nay, Đề án đã được triển khai trên toàn thế giới, không chỉ ở những nơi Bác từng đến mà ở tất cả các nơi Việt Nam có cơ quan đại diện, những nơi tư tưởng, hình ảnh của Bác được tôn kính, với nhiều hình thức thực hiện đa dạng.
Với chỉ hơn 10 năm thúc đẩy, NGVH vẫn là lĩnh vực mới mẻ và còn nhiều khó khăn thách thức với chúng ta. Tôi mong rằng đội ngũ làm NGVH cần tiếp tục kiên trì, nỗ lực từng bước nâng tầm NGVH, tạo nhận thức chung rộng rãi về tác dụng quan trọng của NGVH và cách mà các nước lớn đang sử dụng NGVH một cách hiệu quả như thế nào.
Ngày nay, khi quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở, và nhu cầu hợp tác, đa phương hóa của Việt Nam ngày càng gia tăng, cán bộ làm công tác NGVH cần nhanh nhạy, sáng tạo, tìm phương pháp mới hiệu quả hơn trong công việc quảng bá đất nước, mở rộng đối tác. Đồng thời, chúng ta luôn chú trọng tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh hoa văn hóa thế giới để làm giàu bản sắc dân tộc Việt Nam, phục vụ hiệu quả cho công tác xây dựng, phát triển đất nước.
Khi văn học “nhập cuộc” ngoại giao Những năm gần đây, văn học đã trở thành một phần quan trọng của ngoại giao văn hóa và được nhiều quốc gia tập trung ... |
Vị Tổng thống giỏi làm ngoại giao văn hóa Là một ngôi sao sáng trong nền chính trị nước Mỹ, Tổng thống Bill Clinton đã có nhiều đóng góp để củng cố hoà khí ... |
"Làm ngoại giao văn hóa, đừng đặt nặng vấn đề mua - bán, xin - cho" Theo họa sĩ Vi Kiến Thành - Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), ... |