Hồ Chủ tịch và Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Việt Nam Jean Sainteny cùng các vị dự lễ ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 tại 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội. (Ảnh tư liệu) |
Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 28/8/1945, thời gian đầu (từ ngày 28/8/1945 đến ngày 2/3/1946 và từ tháng 11/1946 đến tháng 3/1947) do Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh trực tiếp kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Như vậy, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người sáng lập, lãnh đạo, đồng thời trực tiếp tiến hành hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam độc lập. Vốn là thuộc địa của Pháp, không có vị trí và quyền hành gì trong quan hệ đối ngoại, khi trở thành quốc gia độc lập, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải xây dựng bộ máy chính quyền nói chung và Bộ Ngoại giao nói riêng từ “con số không”.
Ban đầu, Bộ Ngoại giao chỉ có khoảng 20 cán bộ, nhân viên, bao gồm một số cán bộ cách mạng và trí thức trẻ giỏi các thứ tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nga. Về cơ cấu tổ chức, dần dần hình thành ba bộ phận: Tổng Thư ký, Ban Tham nghị và Văn phòng. Luật gia Nguyễn Văn Lưu làm Tổng Thư ký. Ban Tham nghị gồm bốn thành viên là các nhà cách mạng, khoa học gồm: ông Tạ Quang Bửu - phụ trách quan hệ với Anh và Mỹ, ông Bùi Lâm - phụ trách quan hệ với Pháp, ông Nguyễn Đức Thụy - phụ trách quan hệ với Trung Hoa Quốc dân Đảng và ông Trần Đình Long - phụ trách quan hệ với Liên Xô, đồng thời xử lý các vụ việc rắc rối liên quan tới hoạt động đối ngoại ở địa phương. Các ông Bùi Lâm và Trần Đình Long đều là cán bộ cách mạng từng hoạt động ở Pháp, sau đó được cử sang học tập tại Liên Xô trong những năm 1930. Ông Trần Đình Long đã bị Trung Hoa Quốc dân Đảng bắt cóc rồi thủ tiêu, và như vậy, ông là liệt sĩ đầu tiên của ngành Ngoại giao.
Trong đội ngũ cán bộ của Bộ Ngoại giao lúc đó còn có một số trí thức trẻ, chủ yếu là các luật gia tốt nghiệp Trường Luật Hà Nội, như các ông Nguyễn Thương, Lê Kim Chung… mà sau này là cán bộ cốt cán của Bộ. Ông Nguyễn Đức Thụy kể lại một số chi tiết thú vị: nhóm cán bộ nói trên hình thành một tổ công tác được gọi là “Ủy hội” làm việc ngay trong Bắc Bộ Phủ, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc (tức Nhà khách Chính phủ, 12 Ngô Quyền hiện nay). Khi triệu tập số cán bộ trên đến giao việc, Bác Hồ nói: “Tôi mời các chú đến đây để tổ chức Ủy viên hội của Bộ Ngoại giao nhưng chỉ dùng chữ “Ủy viên hội” hay “Ủy viên” trong nội bộ thôi, tránh để bọn Tưởng biết vì chúng coi đó là cách gọi của Đảng Cộng sản. Ở bên ngoài nên gọi là “tham nghị” - một chức phổ biến trong bộ máy của Trung Hoa Quốc dân Đảng”. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dặn anh em khắc các con dấu vì bọn Tưởng chỉ coi trọng con dấu, không coi trọng chữ ký! Chi tiết nhỏ trên đây cho thấy làm ngoại giao cần hiểu biết cặn kẽ văn hóa, tâm lý, tập quán của đối tác, đối phương tới mức nào. Ông Thụy còn cho biết, nhóm cán bộ này cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành một tổ Đảng, và đây chính là tổ chức Đảng đầu tiên trong Bộ Ngoại giao. Văn phòng Bộ Ngoại giao bao gồm các phòng bí thư, cơ mật, thông tin và phát ngôn; bộ phận sự vụ bao gồm các phòng công văn, kế toán, nghi lễ - khánh tiết, thông tin - báo chí, thông dịch, hộ chiếu - kiều dân, chính trị - kinh tế.
Đầu 1946, chính phủ Pháp và chính phủ Tưởng Giới Thạch bắt đầu đàm phán tại Trùng Khánh, Trung Quốc một thỏa thuận về việc quân đội Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Tưởng giải giáp quân đội phát xít Nhật. Cùng thời gian này, Hồ Chủ tịch và Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Việt Nam Jean Sainteny cũng bắt đầu các cuộc thương lượng bí mật về các vấn đề trong quan hệ hai nước, tập trung vào việc Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Sau khi Pháp và Tưởng đạt được thỏa thuận Trùng Khánh ngày 28/2/1946, theo đó Pháp trả lại cho Tưởng một số tô giới ở Trung Quốc và nhân nhượng thêm cho Tưởng một số quyền lợi kinh tế, thương mại kể cả ở Việt Nam, đổi lại Trùng Khánh đồng ý cho quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng từ ngày 1 đến 31/3/1946 để giải giáp quân Nhật. Thế nhưng lúc này Pháp vẫn buộc phải tìm cách đạt được một thỏa thuận với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để quân Pháp có thể an toàn ra miền Bắc Việt Nam mà không vấp phải sự đánh trả từ quân dân Việt Nam như họ đã và đang bị ở miền Nam nước ta.
Sau nhiều đêm đàm phán gay go, phức tạp, Hồ Chủ tịch và Ủy viên Cộng hòa Pháp Jean Sainteny đã đạt được thỏa thuận về một bản Hiệp định sơ bộ giữa hai chính phủ sẽ được ký vào chiều 6/3/1946, theo đó Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia Tự Do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính của mình, vấn đề thống nhất ba kỳ Việt Nam sẽ được thực hiện sau một cuộc trưng cầu dân ý trong cả nước…, đổi lại, chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam để giải giáp quân Nhật và số quân này sẽ phải rút về nước trong vòng năm năm, mỗi năm 3.000 người; hai bên sẽ sớm tiến hành cuộc đàm phán chính thức về quan hệ hai nước ở Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris. Hiệp định Sơ bộ Việt Nam – Pháp 6/3/1946 là một dấu mốc quan trọng, khởi đầu cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao trong sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của Việt Nam 75 năm qua.
Sau cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, thực hiện chủ trương hòa hợp dân tộc và sách lược hòa hoãn với quân đội Tưởng Giới Thạch, Hồ Chủ tịch và Đảng ta chấp nhận cho một số người của hai tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội tham gia Quốc hội và Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, trong đó ông Nguyễn Tường Tam (tức nhà văn Nhất Linh trong nhóm Tự lực Văn đoàn trước Cách mạng tháng Tám 1945) thuộc Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông Nghiêm Kế Tổ, thuộc Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách), làm Thứ trưởng, và Luật sư Trần Văn Tuyên (Việt Quốc) làm Đổng lý Văn phòng Bộ Ngoại giao.
Mặc dù đã được Quốc hội khóa I cử giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao từ ngày 2/3/1946, ông Nguyễn Tường Tam vẫn từ chối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ bộ Việt Nam - Pháp ngày 6/3/1946 với đại diện của Chính phủ Pháp. Và người của Việt Nam Quốc dân Đảng được cuộc họp liên tịch sáng ngày 6/3/1946 giữa Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Đoàn Cố vấn Tối cao của Chính phủ, và Uỷ ban Kháng chiến Toàn quốc cử ra để cùng Hồ Chủ tịch ký Hiệp định Sơ bộ Việt Nam - Pháp với Jean Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp là ông Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Toàn quốc. Tuy vậy, ông Nguyễn Tường Tam vẫn có mặt tại lễ ký Hiệp định sơ bộ Việt Nam - Pháp chiều 6/3/1946 tại 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội.
Ngày 24/3/1946, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam cùng các ông Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Vũ Đình Huỳnh, Thư ký riêng của Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh và Ủy viên Cộng hòa Pháp Jean Sainteny đã tháp tùng Hồ Chủ tịch trên chiếc thủy phi cơ của không quân Pháp từ Hà Nội ra Vịnh Hạ Long gặp Cao ủy D’Argenlieu trao đổi ý kiến về việc thực thi Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Tuy nhiên, khi Hồ Chủ tịch gặp riêng Cao ủy D’Argenlieu để trao đổi ý kiến thực chất về việc thực hiện Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, chỉ có ông Hoàng Minh Giám cùng dự với Bác.
Thực hiện thỏa thuận giữa Hồ Chủ tịch và D’Argenlieu tại cuộc gặp ngày 24/3/1946 trên Vịnh Hạ Long, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn, ông Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Toàn quốc làm Phó Trưởng đoàn dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam đi Đà Lạt dự cuộc đàm phán trù bị với đoàn đại biểu Chính phủ Pháp do Max Andre dẫn đầu từ 19/4 - 11/5/1946. Do lập trường thực dân ngoan cố lỗi thời của phía Pháp, cuộc họp trù bị ở Đà Lạt không đạt được kết quả gì.
Cao ủy Thierry d’Argenlieu đón Hồ Chủ tịch trên vịnh Hạ Long ngày 24/3/1946. |
Ngày 7/4/1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 47SL về tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại giao. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại giao.
Ngày 16/4/1946, Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy được cử tham gia phái đoàn Chính phủ Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ dẫn đầu thăm thiện chí Trùng Khánh nơi chính phủ Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch) đóng trụ sở. Sau khi chuyến thăm kết thúc, Cố vấn Vĩnh Thụy không về Việt Nam mà ở lại Côn Minh, sau đó sang sống ở Hong Kong, rồi từ đó trượt dài trên con đường làm tay sai cho Pháp, dù Hồ Chủ tịch và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần kêu gọi ông ta trở về tổ quốc cùng nhân dân chống ngoại xâm.
Ngày 29/5/1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 81SL cử đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam sang Pháp dự cuộc đàm phán chính thức giữa hai nước theo tinh thần Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Một lần nữa Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên trong cùng ngày 29/5/1946, ông Nguyễn Tường Tam viện cớ bị bệnh không tham gia đoàn đàm phán Chính phủ đi Pháp. Ngày 30/5/1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 86SL cử ông Phạm Văn Đồng, Phó Trưởng Ban Thường trực Quốc hội khóa I, người vừa mới dẫn đầu đoàn Quốc hội Việt Nam thăm hữu nghị Nghị viện Pháp trở về nước, làm Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam.
Ngày 31/5/1945, Hồ Chủ tịch, với tư cách thượng khách của Chính phủ Pháp cùng Đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam rời Hà Nội lên đường sang Pháp trên hai chiếc máy bay Dakota của Không quân Pháp, có tướng Raoul Salan và Đại tá Tutenges tháp tùng.
Một thời gian ngắn sau đó, ông Nguyễn Tường Tam cùng các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trần Văn Tuyên và một số lãnh tụ khác của Việt Quốc và Việt Cách từng tham gia bộ máy chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày 2/3/1946, đã rời bỏ Việt Nam theo chân quân đội Tưởng Giới Thạch, người bảo trợ về chính trị và quân sự của họ, sang Trung Quốc, chấm dứt giai đoạn ngắn ngủi các nhân vật chủ chốt của hai tổ chức chính trị đối lập Việt Quốc và Việt Cách cùng Việt Minh tham gia thực chất vào Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.
Do lập trường thực dân ngoan cố của phái đoàn Pháp và những hành động cố tình phá hoại đàm phán của quân đội Pháp ở Việt Nam, cuộc đàm phán tại Fontainebleau (từ 6/7 tới 10/9/1946) thất bại. Để cứu vãn Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, duy trì khả năng nối lại đàm phán song phương, tranh thủ thêm thời gian hòa hoãn giữa hai bên, trong ngày 14/9/1946, Hồ Chủ tịch đã trực tiếp thương lượng môt bản thỏa thuận với Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet. Rạng sáng ngày 15/9/1946, Hồ Chủ tịch và Bộ trưởng Moutet ký bản Tạm ước (Modus Vivendi) 14/9/1946.
Ngày 16/9/1946, Hồ Chủ tịch rời Paris đi cảng Toulons lên tàu thủy Dumont Durville về nước. Trước khi rời Paris, với thiện chí mong muốn duy trì tiếp xúc trực tiếp giữa hai bên, Hồ Chủ tịch đã cử một Phái đoàn đại diện thường trú tại Paris do ông Hoàng Minh Giám, Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Nội vụ đứng đầu và gồm các ông Dương Bạch Mai và Trần Ngọc Danh.
Ngày 3/11/1946, Kỳ họp thứ II, Quốc hội khóa I bầu ra Chính phủ Liên hiệp Quốc dân thay thế Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Trong Chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa kiêm chức Bộ trưởng Ngoại giao tới tháng 3/1947, và ông Hoàng Minh Giám được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
Sau ngày Hồ Chủ tịch từ Pháp về tới Hà Nội, từ tháng 11/1946, Cao ủy D’Argenlieu và tướng Jean Etienne Valluy Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Việt Nam ngày càng có những hành động gây hấn nhằm xóa bỏ các cam kết của chính phủ Pháp trong Tạm ước 14/9/1946 mà điển hình là vụ cố tình gây xung đột quân sự lớn và sử dụng vũ lực chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn cuối tháng 11/1946. Bất chấp những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và Chính phủ Việt Nam gửi chính phủ Pháp ở Paris và Bộ chỉ huy quân đôi Pháp ở Đông Dương về việc sớm chấm dứt xung đột quân sự, nhanh chóng tiến hành đàm phán giải quyết các vụ gây hấn do quân Pháp gây ra, quân đội Pháp vẫn không ngừng lấn tới.
Chỉ trong hai ngày 18 và 19/12/1946, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương liên tiếp gửi cho Chính phủ Việt Nam 3 tối hậu thư đòi tước vũ khí quân đội, tự vệ Hà Nội, tuyên bố sẽ nắm quyền duy trì an ninh trật tự ở Hà Nội từ sáng ngày 20/12/1946. Đứng trước tình hình hết sức căng thẳng ở Hà Nội và việc quân Pháp chắc chắn sẽ tái diễn những gì chúng đã làm ở Hải Phòng hồi cuối tháng 11/1946, tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay là Hà Nội), trong hai ngày 17 - 18/12/1946, Hồ Chủ tịch và Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định chủ động phát động cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp trên phạm vi toàn quốc.
Tuy vậy, sáng sớm ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch giao cho ông Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng Ngoại giao một bức thư viết tay gửi Ủy viên Cộng hòa Pháp Jean Sainteny đề nghị Sainteny gặp ông Giám để trao đổi ý kiến tìm cách làm giảm tình hình căng thẳng đã lên tới đỉnh điểm. Tuy nhiên, đề nghị của Hồ Chủ tịch đã không được J. Sainteny đáp ứng. Cuộc gặp giữa ông Hoàng Minh Giám và J.Sainteny đã không diễn ra. Tám giờ tối ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền của đất nước Việt Nam nổ ra trên phạm vi cả nước.
Đầu tháng 1/1947, trong khi cuộc chiến đấu của quân dân Thủ đô Hà Nội chống lại quân đội viễn chinh Pháp đang diễn ra rất quyết liệt, thì đại diện Lãnh sự quán các nước Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch), Anh và Mỹ đề nghị có cuộc gặp tới Bộ Ngoại giao Việt Nam để bàn về việc di tản kiều dân Trung Hoa và Ấn Độ (lúc này Ấn Độ vẫn đang là thuộc địa của Anh) ra khỏi khu vực chiến sự, chủ yếu là Liên khu I Hà Nội.
Về thực chất thông qua cuộc gặp này, phía quân đội Pháp muốn việc sơ tán thường dân Việt Nam và kiều dân nước ngoài ra khỏi vùng chiến sự diễn ra để sau đó họ có thể tự do sử dụng tối đa hỏa lực pháo binh và không quân đánh phá các vị trí phòng thủ của quân đội Việt Nam. Về phía Việt Nam, Hồ Chủ tịch, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy quân đội ta cũng muốn nhân dịp này đạt được thỏa thuận với đối phương (thông qua cuộc gặp với các Lãnh sự nói trên) để đưa bớt một bộ phận bộ đội, nhân dân, thương bệnh binh không còn cần phải ở lại tiếp tục chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong nội đô, giảm bớt thương vong không cần thiết, giảm bớt gánh nặng tiếp tế hậu cần từ hậu phương vào cho mặt trận.
Cuộc gặp giữa đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các Lãnh sự Trung Quốc, Anh, Mỹ diễn ra đầu tháng 1/1947 tại Ô Chợ Dừa, Hà Nội. Trưởng Đoàn Việt Nam là Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám và gồm các ông Nguyễn Văn Trân, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hà Nội; Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Chính trị Ủy viên Bộ đội Tiếp Phòng Việt Nam.
Đoàn các Lãnh sự nước ngoài gồm có Vương Tử Kiện, Lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc, Tresor Winston, Lãnh sự Anh và O’Sullivan, Lãnh sự Mỹ. An ninh, an toàn của cuộc gặp do phía Việt Nam đảm nhiệm. Cuộc gặp đã đạt được thỏa thuận yêu cầu quân đội Việt Nam và Pháp ở Hà Nội tạm ngừng bắn trong ngày 15/1/1947 để thường dân Việt Nam và kiều dân nước ngoài bị kẹt lại từ sau đêm 19/12/1946 có thể an toàn rút ra khỏi khu vực chiến sự trong nội đô.
Ngày 15/1/1947, gần 10.000 thường dân Việt Nam cùng các Hoa kiều và Ấn kiều, trong đó có gần 4.000 bộ đội, thương bệnh binh Việt Nam đi lẫn vào đã an toàn rút ra khỏi Liên khu I Hà Nội theo tuyến đường từ Chợ Đồng Xuân, qua Hàng Đậu, Hàng Than lên đê Yên Phụ ra khỏi Hà Nội.
Đây là một hoạt động ngoại giao đóng góp phần quan trọng hỗ trợ cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Hà Nội chống lại quân Pháp xâm lược. Sau ngày 15/1/1947, quân số Trung đoàn Thủ đô còn khoảng 1.200 người tiếp tục cuộc chiến đấu với quân Pháp cho tới đêm 17/2/1947 khi toàn bộ đơn vị bí mật, bất ngờ rút lui an toàn qua sông Hồng dưới gầm cầu Long Biên ra vùng hậu phương, tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài.
Tài liệu tham khảo:
Hoàng Minh Giám – Con người và Lịch sử, NXB Lao Động, Hà Nội 1995,
Bộ Ngoại giao – 70 năm xây dựng và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2015.