Thưa Thứ trưởng, mục tiêu kết nối giao thông giữa 6 nước thành viên trong khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng đến nay đã được thực hiện như thế nào?
Việt Nam đã tham gia tích cực vào nhiều khuôn khổ hợp tác trong đó có khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS). Đây là khuôn khổ hợp tác do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) bảo trợ và có 6 nước thành viên tham gia gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanmar. Kết nối giao thông vận tải là ưu tiên hàng đầu trong Chương trình GMS. Nội dung Chiến lược vận tải thời gian tới khuyến nghị mở rộng phạm vi của chương trình hạ tầng phần cứng - kết nối giao thông trong GMS bao gồm cả đường bộ và đường sắt.
Về hạ tầng, trên cơ sở kết nối hạ tầng đường bộ về cơ bản đã hoàn thành ở các nước (ngoại trừ Myanmar vừa được gỡ bỏ cấm vận), khung chiến lược khuyến nghị các nước GMS cần tăng cường tập trung phát triển vận tải đa phương thức, chú trọng kết hợp vận tải đường sắt; cải thiện an toàn đường bộ; đảm bảo rằng các đánh giá về biến đổi khí hậu được lồng ghép vào các dự án phát triển giao thông. Về đường sắt, các nước thống nhất ưu tiên nghiên cứu xác định lại các tuyến đường sắt nối giữa các nước, những khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn khai thác vận hành và kết cấu hạ tầng. Xác định ga đường sắt biên giới giữa các nước, thành lập Hiệp hội Đường sắt GMS.
Đặc biệt, các nước thành viên GMS cam kết triển khai có hiệu quả hiệp định GMS-CBTA, chú trọng áp dụng các chính sách tạo thông thoáng vận chuyển người và hàng hóa qua lại biên giới các nước, qua đó thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế. Biến hạ tầng được các nước phối hợp xây dựng thành các hành lang kinh tế, thúc đẩy giao lưu hàng hóa, người và phương tiện, tạo công ăn việc làm, phát triển du lịch và thương mại, tạo sự gắn kết về lợi ích và hòa bình trong khu vực.
Đại diện các nước GMS tại Hội nghị Ủy ban Hỗn hợp lần thứ 6 thực hiện Hiệp định Tạo thuận lợi vận chuyển người và hàng hóa qua lại biên giới, ngày 15/3/2018 tại Hà Nội. |
Để cùng tiến tới mục tiêu trên, Việt Nam đã tham gia vào kế hoạch này như thế nào?
Trong khuôn khổ hợp tác này, Việt Nam với sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, trong đó có ADB và bằng chính nội lực, chúng ta đã và đang hoàn thành hàng loạt các kết nối hành lang đối ngoại quan trọng. Với Trung Quốc, ta đã đưa vào sử dụng hoàn chỉnh cao tốc Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng (từ tháng 12/2015).
Theo kế hoạch, trước năm 2020 sẽ hoàn chỉnh và đưa vào khai thác cao tốc Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, và tiếp theo là cao tốc Hải Phòng - Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái - Bằng Tường. Trong đó, đoạn Hải Phòng - Hạ Long sẽ hoàn thành trong quý II/2018, đoạn Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái được UBND tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư đang nỗ lực thu xếp vốn.
Trên hành lang kết nối với Lào có tuyến cảng Đà Nẵng - Đông Hà theo Quốc lộ 1 - Lao Bảo và theo Quốc lộ 9 – Quốc lộ 9 của Lào - Thái Lan - cảng Dawei của Myanmar (đoạn trên lãnh thổ Myanmar đang trong quá trình xây dựng) có chiều dài khoảng 1.450km. Đây là tuyến hành lang quan trọng, rút ngắn cự ly vận chuyển bằng đường bộ từ Thái Bình Dương tới Ấn Độ Dương và ngược lại, di chuyển chỉ mất 3 ngày bằng đường bộ. Trong khi đó, nếu hàng hóa phải đi theo đường biển qua eo Malaca sẽ phải qua 6.000 km trong 10 ngày.
Hành lang Đông - Tây thứ 2 chạy qua Quốc lộ 217 đang được ADB hỗ trợ chuẩn bị hoàn thành.
Sắp tới, trên cơ sở hướng tuyến Đông - Tây đang được khai thác nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Việt Nam và Lào đã nghiên cứu và đưa ra sáng kiến tuyến hành lang từ Myanmar đi Thái Lan tới Lào (qua cầu Hữu nghị số 5 giữa Lào, Thái Lan) và chạy theo đoạn Pặc San - Thanh Thủy - Vinh về cảng Vũng Áng. Đây là một nhánh trong cao tốc Hà Nội – Vientiane là cao tốc chiến lược được Chính phủ hai nước Việt Nam và Lào quyết tâm xây dựng.
Kết nối với Campuchia, hành lang phía Nam và hành lang ven biển phía Nam đã được ADB hỗ trợ xây dựng. Đối với tuyến cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Phnom Penh dài 180km, Việt Nam và Campuchia vừa ký kết thúc đẩy đầu tư xây dựng. Từ TP. Hồ Chí Minh kết nối với cảng Cái Mép - Thị Vải và từ Phnom Penh sẽ kết nối tiếp sang Thái Lan và hành lang phía Nam.
Như vậy, hạ tầng giao thông kết nối giữa các nước GMS đã tương đối đảm bảo. Tại hội nghị Ủy ban hỗn hợp lần thứ 6 thực hiện Hiệp định GMS-CBTA, các Bộ trưởng đã ghi nhận việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông thời gian qua theo hướng thúc đẩy các hành lang có tính kết nối trong khu vực Tiểu vùng trọng yếu; Đồng thời, trao đổi phương cách để biến các hành lang đã được xây dựng trở thành các hành lang kinh tế, đem lại phát triển về thương mại, du lịch... cho các nước thành viên.
Cụ thể, những vấn đề quan trọng nào đã được 6 nước thành viên trao đổi tại Hội nghị này?
Đại diện 6 nước đã tập trung trao đổi các vấn đề cốt yếu như, bổ sung thêm các hành lang mà các nước đã hoàn thành đầu tư xây dựng để tổ chức vận tải qua biên giới vào Nghị định thư số 1. Việt Nam có 2 tuyến là Quốc lộ 12 qua cửa khẩu Chalo và Quốc lộ 8 được kiến nghị bổ sung lần này để khai thác hiệu quả cảng Vũng Áng và hành lang Đông - Tây (Vũng Áng - đường 12 qua Lào và sang Thái Lan). Bên cạnh đó, sẽ cho phép kết nối các tuyến hành lang mới, xuyên biên giới các nước.
Các Bộ trưởng đã trao đổi về Bản ghi nhớ “Thu hoạch sớm” với mốc thời gian, biện pháp cụ thể để các thành viên nhanh chóng tổ chức khai thác, tổ chức thực hiện mô hình Một cửa/một lần dừng và các biện pháp tạo thuận lợi hơn về vận tải và thương mại. Hội nghị kết thúc thành công với Lễ ký Bản ghi nhớ thực hiện “Thu hoạch sớm” Hiệp định GMS – CBTA giữa các nước thành viên GMS và ra Tuyên bố chung Hội nghị Ủy ban hỗn hợp lần thứ 6.
Với Bản ghi nhớ này, việc đi lại qua biên giới sẽ được cải thiện như thế nào, thưa Thứ trưởng?
Bản ghi nhớ này sẽ là một hiệu lệnh để các nước cùng lúc thực hiện theo các cam kết đã thỏa thuận trong khuôn khổ GMS. 6 nước sẽ thống nhất quy trình tổ chức thực hiện có hiệu quả mô hình Một cửa/một lần dừng; Quy trình bảo lãnh cho phương tiện qua biên giới được thuận tiện; Quy định một loại giấy phép chung để phương tiện có thể đi qua tất cả các nước thành viên tham gia ký kết trên các tuyến hành lang đã thống nhất.
Các nước sẽ cấp 500 giấy phép theo Nghị định thư số 3 của Hiệp định CBTA và công nhận lẫn nhau, chấp nhận các giấy phép này; Thực thi các chế độ của hiệp định về tạm nhập phương tiện cơ giới, dựa trên Điều 18 của Hiệp định, cho phép tạm nhập mà không phải nộp các loại thuế nhập khẩu, không phải bảo lãnh hải quan...
Bản ghi nhớ có vai trò quan trọng vì sẽ tạo một khuôn khổ pháp lý cho phép nhiều loại xe vận chuyển hàng hóa và người xuyên biên giới các nước, nhiều hàng hóa sẽ được vận chuyển đường bộ thay vì đường biển, qua đó sẽ giảm được chi phí logistics.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!