Nền kinh tế Mỹ là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế toàn cầu – chiếm khoảng 25% GDP thế giới và chiếm phần lớn hơn trong các giao dịch tài chính toàn cầu. Đó là lý do thực sự để lo lắng rằng con “virus” tài chính Mỹ có thể đánh dấu bước khởi đầu của một “bệnh dịch” kinh tế toàn cầu.
Thương mại suy giảm: Cách rõ ràng nhất để thấy sự “lây lan” này là thông qua thương mại. Nếu sản lượng hàng hóa và tiêu dùng ở Mỹ giảm sẽ dẫn đến sụt giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng và các hàng hóa khác. Sự nhập khẩu của Mỹ chính là sự xuất khẩu của các nước khác. Kịch bản đó cho thấy tăng trưởng kinh tế của Mỹ giảm thì tăng trưởng kinh tế của nhiều nước khác cũng giảm. Các nền kinh tế quan trọng như Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Mexico, Hàn Quốc và nhiều nước Đông Nam Á phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ.
Đồng đôla yếu sẽ làm vấn đề trở nên tồi tệ hơn: Ngay từ đầu, suy thoái kinh tế ở Mỹ và Fed cắt giảm lãi suất khiến đồng đôla trở nên yếu so với một số đồng tiền đang thả nổi khác như đồng yên, euro, won. Một đồng đô la yếu hơn có thể khuyến khích hoạt động xuất khẩu của Mỹ vì các nước này có khả năng mua nhiều hơn. Nhưng rõ ràng đây không phải là tin tốt lành cho các nước như Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc vốn phụ thuộc lớn vào hoạt động xuất khẩu sang Mỹ. Đó là lý do sự củng cố các đồng tiền của họ làm hàng hóa của các nước này ở Mỹ tăng, khiến hoạt động xuất khẩu giảm bớt tính cạnh tranh.
Bong bóng địa ốc sẽ nổ tung: Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trải qua hiện tượng bong bóng trong những năm gần đây. Mỹ cũng không phải là quốc gia duy nhất mà bong bóng địa ốc bị vỡ: Anh, Ireland và Tây Ban Nha chỉ đứng sau Mỹ về giá trị nhà và biệt thự bị giảm giá. Những quốc gia nhỏ hơn nhưng cũng vẫn chịu bong bóng bất động sản bao gồm Pháp, Hi Lạp, Hungary, Italy, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Baltic. Ở Châu Á, Australia, Trung Quốc, New Zealand và Singapore cũng trải qua tình trạng này ở mức độ nhẹ hơn. Điều không thể tránh khỏi là các bong bóng đó sẽ nổ, khi thắt chặt tín dụng và lãi suất cao, dẫn đến suy giảm kinh tế nội địa với một số nước và một số nước khác rơi vào suy thoái toàn bộ.
Giá tiêu dùng sẽ giảm: Chỉ cần nhìn giá dầu tăng cao quá mức cũng thấy nhu cầu về hàng hóa của thế giới tăng mạnh. Nhưng tình trạng giá cao sẽ không kéo dài. Bởi sự suy giảm của hai nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc gây ra sự sụt giảm mạnh nhu cầu về các mặt hàng như dầu, năng lượng, thực phẩm và khoáng sản. Giá những mặt hàng này giảm sẽ làm tổn thương hoạt động xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của các nhà xuất khẩu hàng hóa ở Châu Á, Mỹ Latinh và Châu Phi. Ví dụ trường hợp Chile, nhà sản xuất đồng lớn nhất thế giới, vật liệu được sử dụng rộng rãi để sản xuất các con chip máy tính và dây điện. Khi nhu cầu của Mỹ và Trung Quốc giảm, xuất khẩu đồng của Chile sẽ giảm và giá đồng cũng sẽ giảm.
Độ tin cậy tài chính dao động: Khủng hoảng cho vay dạng subprime mortgage (một dạng cho vay thế chấp được thực hiện đối với người vay có xếp hạng tín dụng thấp) ngày càng lan rộng, xuất hiện ở Australia và Châu Âu, thậm chí ở các làng nhỏ ở Na Uy. Tình trạng vỡ nợ cũng lan ra các thị trường tài chính khác.
Niềm tin của các khách hàng ở ngoài nước Mỹ, đặc biệt là ở Châu Âu và Nhật Bản chưa bao giờ lớn mạnh và ngày càng mất niềm tin hơn. Những tin tức tồi tệ về nền kinh tế Mỹ đang tác động trực tiếp đến tâm lý người tiêu dùng toàn thế giới. Và khi hoạt động của họ ở Mỹ suy giảm, các công ty đa quốc gia có thể quyết định cắt giảm đầu tư vào các nhà máy không chỉ ở Mỹ mà ở khắp nơi. Các công ty Châu Âu sẽ bị tác động mạnh bởi họ phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng nhiều hơn so với các công ty của Mỹ. Sự thắt chặt tín dụng toàn cầu sẽ giới hạn khả năng sản xuất, cho thuê và đầu tư của họ.
Cách tốt nhất để thấy phản ứng tài chính dây chuyền này lan rộng như thế nào, hãy xem xét thị trường chứng khoán toàn cầu. Các nhà đầu tư gặp nhiều rủi ro hơn khi các nền kinh tế có những dấu hiệu suy giảm. Chỉ số Dow Jones giảm và các nhà đầu tư bán rẻ cổ phiếu. Tương tự là sự sụt giảm nghiêm trọng của thị trường chứng khoán ở Tokyo, Frankfurt, London và Paris. Tính không ổn định của thị trường đã lên đến cực điểm, khiến các nhà đầu tư bán cổ phiếu ra ồ ạt.
Tiền bạc không thể cứu nguy
Những người lạc quan tin rằng các ngân hàng trung ương có thể cứu thế giới khỏi những ảnh hưởng tiêu cực này. Họ lấy dẫn chứng từ cuộc phục hồi của thế giới từ cơn suy thoái năm 2001 để hi vọng.
Thời đó, Fed đã giảm lãi suất từ 6,5% xuống 1%, Ngân hàng Trung ương Châu Âu cắt giảm lãi suất từ 4% xuống 2% và Ngân hàng Nhật Bản giảm lãi suất xuống bằng 0. Nhưng ngày nay, khả năng sử dụng công cụ tiền tệ để kích thích nền kinh tế của họ và giảm tác động của sự suy thoái toàn cầu giới hạn hơn nhiều. Các ngân hàng trung ương đang bối rối trong tình hình lạm phát tăng cao. Một đồng đôla yếu hơn sẽ là trò chơi có tổng bằng 0 trong nền kinh tế toàn cầu; Nó có thể đưa lại lợi ích cho Mỹ nhưng lại làm hạn chế tính cạnh tranh và kìm hãm sự tăng trưởng các đối tác thương mại của Mỹ.
Phải mất nhiều năm mới giải quyết được những vấn đề gây ra khủng hoảng như quản lý hoạt động cho vay cầm cố yếu kém, sự thiếu minh bạch đối với các sản phẩm tài chính phức tạp, đánh giá tín dụng sai lầm, quản lý rủi ro kém... của các tổ chức tài chính.
Trong thế giới phẳng ngày nay, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia kích thích tăng trưởng kinh tế. Thật không may, sự kết nối kinh tế và thương mại cũng có nghĩa là sự suy thoái kinh tế ở quốc gia này có thể kéo theo ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Không phải nước nào cũng bị suy thoái theo Mỹ nhưng cũng không nước nào có thể miễn trừ.
Mai Thảo (Theo Foreign Policy)