11h50: Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu đáp từ và tiếp thu các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Phát biểu đáp từ Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cảm ơn những chỉ đạo sát sao, trực tiếp, quyết liệt của Thủ tướng đối với hoạt động của ngành trong thời gian tới.
Thay mặt lãnh đạo ngành Ngoại giao, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh khẳng định, ngành xin tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng và sẽ đưa những ý kiến chỉ đạo đó vào trong chương trình hành động của Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
10h30: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo Hội nghị.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
10h20: Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Nguyễn Quốc Cường trình bày tham luận "Khai thác hiệu quả mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nhật Bản phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của Việt Nam".
Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Nguyễn Quốc Cường. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Đại sứ Nguyễn Quốc Cường nhấn mạnh quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đang trải qua “giai đoạn vàng”. Trong đó, Đại sứ chia sẻ về hai lĩnh vực hợp tác quan trọng là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vấn đề đầu tư trực tiếp (FDI).
Về ODA, theo Đại sứ Nguyễn Quốc Cường, Chính phủ Nhật Bản đã nêu rõ ba trọng tâm ưu tiên của ODA của nước này dành cho Việt Nam trong thời gian tới. Đó là giúp nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong đó có việc xây dựng cơ sở hạ tầng chất lượng cao; nâng cao năng lực sản xuất, hỗ trợ phát triển công nghệ phụ trợ; ứng phó với biến đổi khí hậu; đào tạo nguồn nhân lực. Những mục tiêu này hoàn toàn phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 3 năm sắp tới của Việt Nam
Đề cập tới vấn đề FDI, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường cho biết, Nhật Bản tiếp tục là nhà đầu tư nước ngoài quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Riêng năm 2017, Nhật Bản vượt cả Hàn Quốc trong đầu tư vào Việt Nam. Đặc điểm vốn đầu tư của Nhật Bản là đầu tư đa dạng, trên nhiều ngành nghề, tỉnh thành với tốc độ giải ngân cao nhất, các công ty Nhật ở Việt Nam được đánh giá là làm ăn nghiêm túc, tôn trọng các quy định của Việt Nam và đảm bảo vấn đề môi trường. Đại sứ nêu đề xuất, ngoài việc ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia, các công ty lớn của Nhật Bản, Việt Nam cần quan tâm hơn tới đầu tư của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nói về nhu cầu nội tại của nước bạn, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường cho biết, Nhật Bản đang đối mặt với tình trạng già hóa dân số nhanh, do đó, rất cần nguồn nhân lực. Phía Nhật Bản đánh giá rất cao Việt Nam thời gian qua đã tạo điều kiện để hỗ trợ nước bạn bằng việc đưa sang Nhật nguồn nhân lực trẻ. Theo Đại sứ, nhân lực trẻ là thế mạnh của Việt Nam và chắc chắn sẽ trở thành trụ cột quan trọng trong hợp tác giữa hai nước thời gian tới. Ngoài ra, hợp tác cấp địa phương cũng đang được phía Nhật Bản đẩy mạnh. Các địa phương Nhật Bản đang ngày càng quan tâm nhiều tới thị trường Việt Nam và mong muốn hợp tác cùng phát triển.
10h10: Đại sứ Hà Kim Ngọc phát biểu tham luận "Khai thác những điểm đặc thù của Chính quyền Tổng thống Donald Trump để tạo đan xen lợi ích kinh tế, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam".
Đại sứ Hà Kim Ngọc phát biểu tham luận tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Theo Đại sứ Hà Kim Ngọc, quan hệ kinh tế thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ hiện có hai mặt. Một mặt, Hoa Kỳ vẫn mở thị trường cho hàng Việt Nam, song tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này chậm lại. Mặt khác, với xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, các mặt hàng của Việt Nam vào Hoa Kỳ bị áp thuế cao hơn. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Trump đang chú trọng giải quyết thâm hụt thương mại với các nước. Điều này đặt quan hệ thương mại song phương vào thế bấp bênh hơn.
Trong bối cảnh đó, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ nêu ba kiến nghị nhằm cải thiện tình hình. Trong đó, Đại sứ Hà Kim Ngọc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ban ngành xây dựng kế hoạch hợp tác liên ngành, đầu tư với các đối tác lớn từ nay đến năm 2020, để giữ quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư ổn định với các đối tác quan trọng hàng đầu. Riêng với Hoa Kỳ, chúng ta cần giữ được một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất, thu hút thêm FDI và thận trọng, từng bước giải tỏa tồn đọng, tránh việc bị cuốn vào xung đột thương mại.
10h00: Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Minh Khôi trình bày tham luận "Tăng cường đan xen lợi ích kinh tế trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong bối cảnh mới".
Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Minh Khôi phát biểu tham luận tại Hội nghị. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Đại sứ Đặng Minh Khôi khẳng định, Việt Nam ngày càng có vị thế lớn hơn trong tổng thể hợp tác thương mại với Trung Quốc và các nước trên thế giới. Việt Nam đã vươn lên trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN, đối tác thương mại lớn thứ 7 của Trung Quốc trên toàn thế giới. Thương mại Việt Nam – Trung Quốc lớn hơn thương mại giữa Trung Quốc với Pháp (50 tỷ USD), với Nga (84 tỷ USD). Thương mại Việt – Trung hiện đã chiếm 1/40 kim ngạch thương mại của Trung Quốc với thế giới.
Việt Nam cần mở rộng hơn nữa trong quan hệ thương mại với các nước, đa dạng thị trường, tránh bị lệ thuộc vào thị trường nào. Để tăng cường hiệu quả quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc, Đại sứ Đặng Minh Khôi đưa ra 8 kiến nghị, đó là: Cần có một đề án tổng thể quốc gia để thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam với Trung Quốc với định hướng lâu dài, chỉ rõ thuận lợi, khó khăn thách thức, có định hướng rõ ràng để đảm bảo tính tự chủ, đề phòng nguy cơ phụ thuộc; Tăng cường các chuyến thăm cấp cao; Phát huy vai trò hợp tác song phương;
Đẩy mạnh hợp tác kết nối giao thông, hạ tầng cơ sở, kể cả thương mại điện tử; Sớm hình thành cơ sở pháp lý và kỹ thuật để tiến hành thanh toán điện tử qua biên giới; Mở rộng quy mô hợp tác với các địa phương Trung Quốc; Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu về kinh tế Trung Quốc, thông hiểu địa bàn; Tăng cường vai trò định hướng tích cực của báo chí trong mở rộng hợp tác kinh tế thương mại với Trung Quốc để báo chí thực sự trở thành người đồng hành tin cậy của địa phương và doanh nghiệp trong hợp tác thương mại với Trung Quốc, phối hợp quảng bá sản phẩm "Made in Vietnam" sang thị trường Trung Quốc.
9h50: Phụ trách Chủ tịch Hội đồng Quản trị, kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel) Lê Đăng Dũng trình bày tham luận "Triển khai hội nhập kinh tế quốc tế thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài: bài học kinh nghiệm của Viettel và khả năng hỗ trợ của ngành Ngoại giao".
Phụ trách Chủ tịch Hội đồng Quản trị Kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) Lê Đăng Dũng trình bày tham luận tại Hội nghị. (ảnh: Nguyễn Hồng) |
Đại diện Tập đoàn Viettel phát biểu, trong giai đoạn đổi mới, Việt Nam đã có bước ngoặt trong đường lối chính sách đối ngoại, trong đó có chủ trương tích cực mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với quan hệ hữu nghị, Việt Nam bắt đầu mở rộng về hợp tác kinh tế với các nước, kể cả song phương và đa phương, tham gia các hiệp định kinh tế lớn trên thế giới. Với các hiệp định này, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong xuất khẩu hàng hóa với các nước trên thế giới. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2017 đã đạt 400 tỷ USD. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đang mở rộng dần ra với thế giới.
Ông Lê Đăng Dũng nhận định, quá trình hội nhập đạt mức độ cao nhất khi các quốc gia có đầu tư trực tiếp đan vào nhau, nghĩa là Việt Nam cũng cần phải có đầu tư trực tiếp vào các quốc gia khác. Chính vì vậy, Đảng và Chính phủ có những chủ trương, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Viettel đã bắt đầu đầu tư ra nước ngoài từ năm 2006, từ các nước láng giềng như Lào và Campuchia. Và gần đây nhất, tháng 6/2018, Viettel đã khai trương mảng viễn thông tại thị trường Myanmar. Bên cạnh kết nối cứng như giao thông, hàng không, kết nối mềm như viễn thông và công nghệ thông tin giúp các chính phủ cùng nhau hành động vì lợi ích quốc gia và khu vực.
Viettel đang có kế hoạch tiến xa hơn ở thị trường châu Mỹ và châu Phi. Viettel mong muốn là doanh nghiệp mở đường, mở rộng quan hệ để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam, cũng như cộng đồng người Việt ở các quốc gia, qua đó người Việt có tiếng nói và vai trò mạnh mẽ hơn.
Ông Lê Đăng Dũng chia sẻ rằng, đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Viettel nói riêng, sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao và các CQĐD ở nước ngoài là vô cùng quan trọng, giúp sắp xếp các cuộc gặp quan trọng, kết nối với các doanh nghiệp và chính quyền nước sở tại, theo dõi, giúp đỡ và hỗ trợ, xử lý kịp thời các vướng mắc liên quan tới nước bạn.
Đại diện Viettel đưa ra một số đề xuất với Bộ Ngoại giao như sau: (1) Mở các cơ quan đại diện tại các quốc gia có đầu tư lớn của Việt Nam (Cameroon, Peru) và trung tâm kinh tế lớn tại khu vực để hỗ trợ các doanh nghiệp “tiến công” vào thị trường khu vực (Kenya, Ethiopia); (2) BNG cần làm đầu mối kết nối các doanh nghiệp trên cùng một thị trường, hỗ trợ lẫn nhau; (3) Hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam trong trường hợp có tranh chấp xảy ra.
9h00: Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong trình bày tham luận "Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của địa phương và khả năng phối hợp với ngành Ngoại giao nhằm phát huy thế mạnh đầu tàu kinh tế của cả nước phục vụ phát triển:.
Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong phát biểu tham luận tại Hội nghị. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong cho rằng, thành phố đã đạt được rất nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh tế thời gian qua. Theo đó, hoạt động đối ngoại của thành phố diễn ra sôi động và mang tính tương tác cao. Thành phố là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, là trụ sở của 80 cơ quan lãnh sự và 100 tổ chức phi chính phủ. Chính quyền thành phố cũng thường xuyên có các hoạt động hợp tác với các tổ chức quốc tế và gặp gỡ trưởng Cơ quan Đại diện nước ngoài. Bên cạnh đó, các hoạt động của thành phố luôn được lồng ghép với xúc tiến đầu tư thương mại.
Đối ngoại được coi là một trong các trụ cột phát triển của thành phố. Quan trọng hơn, thành phố luôn phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao, trưởng Cơ quan Đại diện, ủng hộ các chương trình và kế hoạch đối ngoại do Trung ương và Bộ Ngoại giao tổ chức, với vai trò chủ đạo của Sở Ngoại vụ thành phố.
Ông Phong tin rằng, trong năm vừa qua, TP. Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì vị thế đầu tàu kinh tế trong cả nước, đóng góp tới 20% GDP và 28% thu ngân sách quốc gia, dẫn đầu vốn đăng ký FDI với 43 tỷ USD. Kết quả này không chỉ đến từ sự chủ động của thành phố trong việc tìm kiếm các quan hệ hợp tác quốc tế, mà còn do sự hợp tác chặt chẽ giữa thành phố và Bộ Ngoại giao, cùng các cơ quan liên quan, tuân thủ đường lối đối ngoại kinh tế đã được Đảng và Nhà nước đề ra.
Cám ơn sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ của Bộ Ngoại giao với thành phố, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong cũng đưa ra thêm một số đề xuất để tăng cường hiệu quả phát triển kinh tế hợp tác của thành phố trong thời gian tới.
Đầu tiên, Chính phủ, Bộ Ngoại giao và thành phố cần tiếp tục tăng cường nhận thức của doanh nghiệp, của nhân dân về hội nhập quốc tế và hội nhập kinh tế, đặc biệt là những cơ hội, thách thức trong bối cảnh Việt Nam tham gia thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới.
Thứ hai, các xu hướng hợp tác, đối thoại đang chuyển biến theo chiều hướng phức tạp, đặc biệt là vấn đề Brexit, CPTPP, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung… tác động mạnh mẽ đến xu hướng chính trị, kinh tế của Việt Nam và khu vực. Chúng tôi mong muốn các Cơ quan Đại diện cập nhật tình hình, thông tin về những thay đổi trong chính sách thương mại, phối hợp với các doanh nghiệp và địa phương tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp nước bạn.
“Cuối cùng, để kinh tế TP. Hồ Chí Minh tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và là đầu tàu của cả nước, chúng tôi mong muốn Bộ Ngoại giao tiếp tục cập nhật các thay đổi về chính sách trong quan hệ quốc tế, giúp thành phố và doanh nghiệp chủ động hơn trong việc xây dựng và triển khai các nội dung hợp tác.” Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong đề xuất.
9h00: Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường tham luận về "Phát triển nông nghiệp công nghệ cao và mở rộng thị trường nông sản trong thời kỳ CMCN 4.0; yêu cầu phối hợp với ngành ngoại giao".
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Bày tỏ chung vui với thành tựu của nền Ngoại giao trong thời gian qua, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng khẳng định thành tựu vượt bậc của ngành Nông nghiệp Việt Nam sau 30 năm đổi mới.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, ngành Nông nghiệp Việt Nam sau 30 năm đổi mới, đặc biệt là từ năm 1993 tới nay, đã đạt những thành tựu quan trọng, trong đó có những thành tựu được bạn bè quốc tế đánh giá là nổi tiếng khu vực. Từ nước nhập khẩu 2 triệu tấn lương thực mỗi năm, sau 25 năm, Việt Nam đã trở thành nước không chỉ hoàn toàn tự túc về lương thực cho gần 100 triệu dân, xuất khẩu lương thực thực phẩm, mà còn góp phần vào hoàn thành các mục tiêu thiên niên kỷ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vượt bậc đó, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng nhấn mạnh đến 3 thách thức, nút thắt căn bản mà ngành Nông nghiệp Việt Nam đang phải đối diện, mà nếu không tháo gỡ thì không thể có bước phát triển mới, đó là:
Thứ nhất, nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam dựa trên quy mô hộ nhỏ lẻ manh mún, với 8,6 triệu hộ nông dân. “Đây là nút thắt lớn nhất” - Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Thách thức thứ hai mà Bộ trưởng Nông nghiệp nhấn mạnh là tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. “Biến đổi khí hậu đang đến nhanh hơn, quyết liệt hơn, khốc liệt hơn, gây tổn hại to lớn hơn, trong đó nông nghiệp, nông dân, nông thôn bị ảnh hưởng lớn nhất. Năm 2016, Việt Nam thiệt hại 33 ngàn tỷ đồng, năm 2017 thiệt hại 60 nghìn tỷ đồng do thiên tai” , Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng định.
Thách thức thứ ba là áp lực cạnh tranh ngày càng tăng. Theo ông Nguyễn Xuân Cường, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay, bên cạnh thành tựu xuất khẩu, mặt trái khi hội nhập là chịu áp lực cạnh tranh vô cùng to lớn khi hàng hóa nước ngoài với chất lượng và công nghệ cao vào Việt Nam. “Nếu không có biện pháp tổ chức tốt thì thị trường 100 triệu dân của Việt Nam sẽ đón nhận luồng hàng nhập khẩu rất lớn.” – Bộ trưởng Nông nghiệp nhấn mạnh.
Trước ba thách thức lớn trên, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, cần tái tổ chức sản xuất ngành Nông nghiệp. “Theo chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, ngành Nông nghiệp đang tập trung quyết tâm theo hướng tập trung hàng hóa hiệu quả, chuỗi giá trị, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nông nghiệp Việt Nam đang chuyển sang sản xuất hàng hóa hướng tới chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam xác định thị trường hiện nay không chỉ là 100 triệu dân trong nước, mà là 7,5 tỷ dân, có thể lên tới 8 tỷ vào năm 2025 và 10 tỷ vào năm 2050. “Việt Nam có trách nhiệm cũng như đủ điều kiện để tập trung vào thị trường này, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu” – Bộ trưởng Cường nhấn mạnh.
Trên cơ sở phân tích những kết quả, thuận lợi và thách thức đối với ngành Nông nghiệp, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đề nghị ngành Ngoại giao phối hợp thực hiện mục tiêu đưa nông sản Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. “Về công tác tìm kiếm, kết nối thị trường, mở cửa thị trường, thời gian qua ngành ngoại giao đã làm rất tốt. Thời gian tới, chúng tôi mong rằng, các cơ quan đại diện ngoại giao không chỉ là những người tìm kiếm, kết nối, bảo vệ, phát triển thị trường mà còn cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nghiên cứu, phát hiện công nghệ, kinh nghiệm quản trị, đối tác làm ăn tại các thị trường nước ngoài”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đề xuất.
8h40: Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh trình bày tham luận "Thâm nhập và mở rộng thị trường trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ, xung đột thương mại giữa các nước lớn gia tăng và vai trò của mạng lưới cơ quan đại diện".
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhận định, bối cảnh tình hình kinh tế quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, như việc Anh rời khỏi EU (Brexit), Mỹ có xu hướng theo đuổi chính sách bảo hộ thương mại mang tính đơn phương, chiến tranh thương mại với Trung Quốc, áp thuế với một số sản phẩm công nghệ, tăng thuế nhập khẩu với thép, nhôm... Bộ trưởng nhấn mạnh, các tranh chấp thương mại quốc tế có dấu hiệu không chỉ giới hạn ở phạm vi kinh tế, mà có những dấu hiệu cạnh tranh chiến lược, ảnh hưởng tới cân bằng trong các cặp quan hệ quan trọng quy mô toàn cầu như Mỹ - Trung Quốc, Mỹ - Nga,…
Về khó khăn đặt ra với Việt Nam, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh chia sẻ, Việt Nam dự kiến chịu nhiều tác động từ những bất ổn kinh tế quốc tế quy mô toàn cầu một cách trực tiếp và gián tiếp, một số mặt hàng đang có nguy cơ bị một số nước đưa vào cuộc chiến tranh thương mại. Dư địa tăng xuất khẩu của ta với các thị trường lớn không còn nhiều. Những nỗ lực của chúng ta về định hình kinh tế thương mại với một số đối tác lớn mà chúng ta dày công vun đắp nay đã bị đe dọa khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), kéo theo các khó khăn của việc thiết lập Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản. Các bất ổn trong nền kinh tế thế giới cũng có tính lan tỏa, lây nhiễm cao, đặc biệt đối với các nền kinh tế nhỏ và dựa vào xuất khẩu như Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, Bộ Công thương đã đề xuất giải pháp kịp thời, theo đó phương hướng chủ đạo là kiên trì thực hiện chủ trương lớn về hội nhập kinh tế quốc tế, trong mọi trường hợp bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta tiếp tục đổi mới bên trong song song với các bước hội nhập kinh tế quốc tế với bên ngoài.
Từ chủ trương trên, Bộ trưởng cho biết, Việt Nam đã chủ động tiến hành đàm phán lại các cam kết trong Hiệp định TPP để hình thành lên hiệp định mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với những lợi ích của ta trong thời kỳ hiện nay.
Với Mỹ, chúng ta chủ động thúc đẩy quan hệ thương mại về đầu tư qua các kênh đã có như hiệp định khung thương mại đầu tư, đồng thời tranh thủ vai trò nước chủ nhà APEC 2017 để thúc đẩy quan hệ song phương. Với các đối tác thương mại khác, chúng ta tiếp tục chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa dựa trên phương hướng đã được Đảng đề ra, để tiếp tục hiệp định thương mại tự do với EU, cùng các nước ASEAN hoàn thành đàm phán RCEP…
Cuối cùng, Bộ trưởng Bộ Công thương khẳng định, trong bối cảnh nền kinh tế có quy mô còn nhỏ, chưa đủ nội lực để bù đắp trước các biến động quy mô quốc tế, chúng ta cần kiên trì triển khai các đường lối của Đảng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, xử lý linh hoạt các tình huống không để rơi vào thế bị động, đối đầu, thiết lập các mối quan hệ ổn định với các thị trường lớn như Mỹ, EU.
8h25: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày tham luận "Tối ưu hóa các nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng và khả năng đóng góp của ngành ngoại giao".
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày tham luận. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, sau 30 lần tổ chức HNNG, Bộ Ngoại giao đã khẳng định nhiều bước tiến vững chắc, đạt được nhiều thành tựu to lớn, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, phát triển và hội nhập của đất nước.
Trong khi bối cảnh thế giới có nhiều biến động, thay đổi nhanh chóng diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới, ngành ngoại giao Việt Nam đã đề ra mục tiêu: “Chủ động, sáng tạo, hiệu quả, thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XII” là một quyết tâm lớn, thể hiện đúng vị trí, vai trò của ngành trong nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện tại, nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức với độ mở của nền kinh tế đến nay đã đạt trên 190%, biến động khó lường của giá cả quốc tế, chiến tranh thương mại đang nổ ra… luôn tạo sức ép tới sự tiến bộ của nền kinh tế nước ta. Điều này đặt ra một nhiệm vụ kép đối với tất cả: một mặt là phải phát triển kinh tế nhanh để thu hẹp khoảng cách phát triển với các quốc gia đi trước; mặt khác là phải bảo đảm phát triển bền vững và tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước những biến động của thế giới.
Cùng với tiến trình đổi mới đất nước, kể từ khi nối lại chương trình hỗ trợ phát triển ODA, Việt Nam đã có hơn 50 nhà tài trợ song phương và đa phương và tổng số vốn ODA cam kết là 84,4 tỷ USD và đã giải ngân 64,4% góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo… đó là sự đóng góp rất lớn và quan trọng của ngành ngoại giao Việt Nam trong việc tìm kiếm và huy động nguồn lực và cần phải đẩy mạnh hơn nữa để hoàn thành các nghĩa vụ cam kết quốc tế.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhận định rằng, ngành ngoại giao Việt Nam cần xem xét trọng tâm 3 khía cạnh chủ yếu: (1) Chủ động tái tạo hiệu quả hơn nữa trong những lĩnh vực ngoại giao truyền thống, trong đó ngoại giao kinh tế cần được đặt mục tiêu quan trọng; (2) Nghiên cứu phát triển ngoại giao trong Cách mạng công nghiệp 4.0; (3) Quảng bá xây dựng hình ảnh Việt Nam tới bạn bè quốc tế, nhất là các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các tập đoàn danh tiếng để cùng hợp tác phát triển.
8h05: Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn trình bày tham luận “Công tác Ngoại giao phục vụ phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng và yêu cầu đặt ra từ nay tới Đại hội Đảng XIII”.
Thứ trưởng thường trực Bùi Thanh Sơn phát biểu dẫn đề Hội nghị. Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Theo Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, kể từ HNNG 29, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, bất ngờ, đem lại những ảnh hưởng và hệ lụy chưa từng thấy. Trong bối cảnh này, đường lối, chủ trương sáng suốt của Đảng, chính sách, pháp luật đúng đắn của Nhà nước, sự điều hành quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ đã giúp ngành đối ngoại nói chung, công tác ngoại giao kinh tế (NGKT) phục vụ phát triển nói riêng đạt được những thành tích đáng kể, đóng góp thiết thực cho việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các nguồn lực cho phát triển, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh, Ngành Ngoại giao đã quyết liệt triển khai chỉ đạo của Thủ tướng tại HNNG 29: “NGKT phải bám thật sát những yêu cầu của từng ngành, vùng, sản phẩm có thế mạnh của đất nước, tìm ra lợi thế so sánh để chủ động phục vụ doanh nghiệp, người dân; tận dụng các hoạt động ngoại giao chính trị, các chuyến thăm cấp cao nhằm thúc đẩy các hợp đồng, thỏa thuận kinh tế quan trọng; tranh thủ quan hệ tốt với các nước để tháo gỡ, khó khăn, trở ngại trong hợp tác kinh tế; tận dụng và tiếp tục thúc đẩy các hiệp định tự do thương mại; linh hoạt, sáng tạo xử lý các thách thức và tận dụng các cơ hội từ các cơ chế hợp tác tiểu vùng”.
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn cho biết, hiện nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 27 nước. Hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư của Việt Nam với thế giới, nhờ đó ngày càng đi vào chiều sâu, mở rộng trên mọi lĩnh vực. Chỉ trong hai năm 2016, 2017, Ngoại giao đã tham mưu “đúng và trúng” cho 90 đoàn cấp cao, vừa khéo léo sử dụng các chuyến thăm làm đòn bẩy tháo gỡ, vướng mắc trong triển khai hợp tác, vừa lồng ghép thành công nội hàm kinh tế trong các thỏa thuận cấp cao, đáp ứng lợi ích của đất nước, địa phương và doanh nghiệp.
“Các kết quả của ngoại giao song phương được bổ khuyết hiệu quả với những thành công trong đối ngoại đa phương. Hình ảnh của dân tộc, vị thế của đất nước, vai trò của quốc gia trong khu vực và trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể với thành công vang dội của Năm APEC 2017, những đóng góp thiết thực cho tiến trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) từ cuối năm 2015, của những hoạt động chủ động và tích cực trong cơ chế hợp tác liên khu vực và tiểu vùng…”, Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định.
Đặc biệt, theo Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn, Việt Nam đã từng bước tham gia hình thành, định hướng và thậm chí tạo dựng các cơ chế hợp tác kinh tế, thương mại, tài chính đa dạng, phong phú, đan xen và đa tầng nấc. Với định hướng lớn của đối ngoại Việt Nam là “xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định tự do thế hệ mới”.
Các đại biểu dự Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Thời gian qua, ngành Ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ/ngành và địa phương tham mưu việc đàm phán, ký kết 16 hiệp định thương mại tự do, trong đó có Hiệp định Hợp tác và Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các hiệp định thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á – Âu, Hàn Quốc, Liên minh chây Âu (EU). Trong 2 năm qua, Ngoại giao đã nỗ lực vận động có thêm 9 đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, nâng tổng số đối tác chính thức công nhận lên con số 71. Trong bối cảnh xuất khẩu của Việt Nam vượt 20 tỷ USD, đây sẽ là một kết quả rất có ý nghĩa khi Việt Nam phải đối mặt với những nguy cơ bị kiện hay áp thuế bán phá giá từ các nước muốn bảo hộ hàng nội địa.
“Trong hai năm qua NGKT đã thay đổi sâu sắc trong cả tư duy lẫn phương thức triển khai. Trên tinh thần “lắng nghe, phục vụ”, Bộ Ngoại giao xác định địa phương và doanh nghiệp là đối tượng trung tâm để phục vụ” – Thứ trưởng thường trực Bùi Thanh Sơn khẳng định.
Cụ thể, chỉ tính riêng Tuần lễ cấp cao APEC 2017, Ngoại giao đã tổ chức kết nối gần 100 cuộc gặp giữa lãnh đạo địa phương với các đối tác. Trong giai đoạn 2016 - 2018, ngành Ngoại giao đã hỗ trợ địa phương tổ chức 51 hội nghị, tọa đàm trong chuỗi hoạt động “Gặp gỡ địa phương – Ngoại giao đoàn”, “Gặp gỡ Đại sứ”, “Giới thiệu địa phương” và Roadshow quảng bá địa phương (tăng 5 lần so với giai đoạn 2014-2016).
Ngoài ra, theo Thứ trưởng thường trực Bùi Thanh Sơn, với doanh nghiệp, các hoạt động lớn Ngành Ngoại giao chủ trì luôn dành cho cộng đồng doanh nghiệp sự quan tâm đặc biệt, tiêu biểu là Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh bên lề Thượng đỉnh GMS 6. Việc Ngoại giao chủ động thúc đẩy hợp tác và vận động thành công Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tổ chức WEF ASEAN 2018 với chủ đề “ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp trong CMCN lần thứ 4” vào tháng 9 tới đây, không chỉ cho thấy sự phát triển mạnh mẽ quan hệ đối tác Việt Nam và WEF, mà còn minh chứng tư tưởng lấy doanh nghiệp là đối tượng trung tâm để phục vụ.
Khẳng định hiệu quả của công tác Ngoại giao phục vụ kinh tế, Thứ trưởng thường trực Bùi Thanh Sơn cho biết, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng “Các Đại sứ, Tổng lãnh sự, Tham tán thương mại không chỉ làm nhiệm vụ chính trị mà phải chuyển sang làm kinh tế”, các Trưởng CQĐD đã thực sự vào cuộc, coi “bán hàng Made in Vietnam” là một trong những nhiệm vụ chính.
Theo Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn, các đồng chí Trưởng CQĐD đã sử dụng hiệu quả mạng lưới quan hệ ở sở tại, vận động chính trị ngoại giao để cùng các Bộ/ngành mở thị trường cho nhiều mặt hàng nông sản như thanh long, vải, nhãn, xoài và mới nhất là vú sữa thâm nhập thị trường các nước phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia.
“Giờ đây cũng không khó để thấy hình ảnh các đồng chí Trưởng CQĐD quảng bá cho các mặt hàng mang thương hiệu Việt Nam” - Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định.
Bên cạnh đó, các CQĐD cũng rất tích cực vận động kiều bào, tham gia xây dựng Tổ quốc. Trong tổng số 11,88 tỷ USD kiều hồi chuyển về nước năm 2016 và 13,78 tỷ USD năm 2017 có phần đóng góp không nhỏ của các CQĐD trong vận động, hỗ trợ kiều bào ta làm ăn ở nước ngoài.
Nhìn lại những thành tựu đã đạt được, Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn đã rút ra một số kinh nghiệm trong triển khai công tác NGKT phục vụ phát triển hơn 2 năm qua, đó là: Bám sát chủ trương của Đảng “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”, trong đó lấy “hội nhập kinh tế là trọng tâm”; Có chương trình kế hoạch NGKT cụ thể và phù hợp cho từng giai đoạn và hàng năm với sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; Thường xuyên kiện toàn bộ máy điều hành, đào tạo và bố trí nhân lực phù hợp, triển khai công việc khoa học nhằm phát huy lợi thế của Ngành trong triển khai công tác NGKT.
Nhận thức rõ điều này, Bộ Ngoại giao đã ban hành Chỉ thị số 03/2017 về việc đẩy mạnh công tác NGKT vì mục tiêu phát triển bền vững giai đoạn 2017 - 2020, cùng kế hoạch công tác chi tiết triển khai chỉ thị này. Với chỉ thị số 03 làm cẩm nang và đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, tâm huyết công việc, ngành ngoại giao đã kịp thời có những đổi mới căn bản trong cách tiếp cận, phương hướng
Trong bối cảnh mới, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã đưa ra một số đề xuất phương hướng triển khai công tác NGKT phục vụ phát triển trong thời gian tới:
Thứ nhất, tham mưu và cảnh báo cần phải nhanh nhạy, kịp thời và đặc biệt lưu ý các vấn đề tác động tới mô hình phát triển của nền kinh tế, hay có tác động lớn đến kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở đó, ngành Ngoại giao cần phải góp phần đề xuất các giải pháp, ứng xử chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho phát triển, tranh thủ sự hỗ trợ, kinh nghiệm của đối tác.
Thứ hai, Việt Nam cần tạo đan xen lợi ích với các đối tác quan trọng, chủ chốt không chỉ đưa quan hệ đi vào chiều sâu mà còn tranh thủ nguồn lực phù hợp cho phát triển. Trong giai đoạn tới, công tác NGKT cần thúc đẩy thu hút FDI thế hệ mới trong các lĩnh vực mà ta ưu tiên như công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, kinh tế biển…
Thứ ba, Việt Nam cần nâng tầm đối ngoại đa phương, tận dụng các cơ chế liên kết kinh tế đa phương để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Việt Nam cần tiếp tục duy trì vị thế và hoàn thành các trách nhiệm quốc tế. Về hội nhập kinh tế, ngành Ngoại giao cần tiếp tục phối hợp cùng các Bộ ngành triển khai hiệu quả các FTA thế hệ mới, các FTA của ASEAN với các đối tác lớn cùng các cam kết quốc tế.
Thứ tư, ngành Ngoại giao cần là người đồng hành tin cậy với các địa phương, doanh nghiệp trong các quá trình thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường trọng điểm, tiềm năng. Bộ Ngoại giao đã có tọa đàm với hơn 400 doanh nghiệp tìm hiểu về nhu cầu cần hỗ trợ của doanh nghiệp và cùng trao đổi về cơ chế, phương thức phối hợp thời gian tới.
Cuối cùng, ngành Ngoại giao cần chú trọng nâng cao năng lực triển khai công tác Ngoại giao kinh tế để phát huy lợi thế của ngành ngoại giao, tranh thủ nguồn lực quốc tế phục vụ phát triển, tiếp tục kiện toàn Ban chỉ đạo về công tác Ngoại giao kinh tế, nâng cao hiệu quả phối hợp trong ngoài, với các Bộ/ngành, địa phương và doanh nghiệp.
Phiên họp có sự tham dự của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, lãnh đạo Bộ Ngoại giao; các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, các tỉnh, thành; hơn 100 Trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, các cán bộ chủ chốt từ các đơn vị của Bộ Ngoại giao, hơn 100 doanh nghiệp lớn và cán bộ làm công tác ngoại vụ của các tỉnh thành trong cả nước.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao chủ trì Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
(Ảnh: Tuấn Anh) |
(Ảnh: Tuấn Anh) |
Các đại biểu chào đón Thủ tướng Chính phủ dự Hội nghị. (Ảnh: Tuấn Anh) |
(Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh xem ảnh triển lãm. (Ảnh: Tuấn Anh) |
Với tinh thần đổi mới, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 trao đổi, thảo luận tìm phương hướng để ngoại giao góp phần phục vụ công cuộc phát triển của đất nước, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh.
Trước đó, ngày 13/8, phát biểu Khai mạc Hội nghị Ngoại giao 30, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhấn mạnh, bối cảnh hiện nay đòi hỏi ngành Ngoại giao phải tiếp tục nỗ lực, tận tâm, liên tục thích ứng; chủ động, sáng tạo trong tư duy, hiện đại trong cách làm, chú trọng tính hiệu quả để triển khai thắng lợi các chủ trương, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đến dự Hội nghị. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh đón Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đến dự Hội nghị. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn chào đón Thủ tướng. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Quốc Dũng chào đón Thủ tướng. (Ảnh: Nguyễn Hồng) |
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nói, "chúng ta cũng cần tiếp tục phối hợp chặt với các các binh chủng khác phấn đấu định vị đất nước một cách vững chắc nhất trong cục diện mới, đặt vào đúng dòng chảy của thời đại như đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ đạo tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, để tiếp tục góp phần đưa đất nước đi lên, thực hiện mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".