PGS.TS. Nguyễn Danh Nam cho rằng, giáo dục 4.0, giáo viên dựa trên nhu cầu học hỏi của người học để gợi mở và định hướng nhiều hơn là truyền đạt kiến thức. |
Dịch Covid-19 tác động thế nào đến việc chuyển đổi số trong giáo dục, thưa ông?
Chuyển đổi số là quá trình áp dụng công nghệ số để thay đổi mô hình hoạt động (tổ chức, con người, quy trình) nhằm tạo ra những giá trị mới, sản phẩm mới, trải nghiệm mới.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì chuyển đổi số trong giáo dục là xu thế tất yếu. Đặc biệt, do tác động của đại dịch Covid-19, chuyển đổi số đã không còn là lựa chọn mà trở thành yêu cầu bắt buộc đối với nền giáo dục của mỗi quốc gia khi mà khoảng 1,5 tỷ học sinh, sinh viên, trong đó có 90% học sinh các trường phổ thông, sinh viên các trường đại học không thể trực tiếp đến trường học.
Tuy nhiên, đây cũng là cơ sở để các quốc gia biến những khó khăn thành cơ hội để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, mở ra một kỉ nguyên mới cho nền giáo dục số.
Đối với Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020, theo đó giáo dục là một trong 8 lĩnh vực cần phải đẩy nhanh công tác chuyển đổi số.
Theo một số nghiên cứu đã công bố, đại dịch Covid-19 giúp đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số toàn cầu khoảng từ 3 đến 7 năm. Để ứng phó, người học phải thay đổi cách học, phải có kỹ năng tự học và hướng tới cá thể hóa việc học với sự hỗ trợ của công nghệ, trong đó học trực tuyến đóng vai trò quyết định.
Có thể thấy, người học chủ động hơn trong quá trình học, có ý thức trong việc tìm kiếm các khóa học trực tuyến với những giáo viên giỏi nhất, thường xuyên được tương tác với các nhóm qua các lớp học ảo, phòng họp trực tuyến hay diễn đàn trao đổi qua mạng internet.
Đại dịch Covid-19 đã thực sự làm cho quá trình chuyển đổi số diễn ra trên toàn cầu và thói quen học trực tuyến, tương tác trực tuyến thông qua các ứng dụng công nghệ sẽ tiếp tục được diễn ra mạnh mẽ, ngay cả khi đại dịch chấm dứt trong thời gian tới. Vì vậy, các quốc gia cần phải chuẩn bị điều kiện, thể chế để đẩy nhanh chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Người học phải là trung tâm của chuyển đổi số
Như ông vừa đề cập thì cần chuẩn bị điều kiện để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong giáo dục, vậy cụ thể hơn thì quá trình này phải bắt đầu từ đâu?
Chuyển đổi số trong giáo dục phải bắt đầu từ đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển. Phải tận dụng công nghệ số để gia tăng khả năng tiếp cận giáo dục cho mọi đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên ở các vùng khó khăn, đặc biệt người học phải là trung tâm của chuyển đổi số trong giáo dục.
Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh công tác số hóa tài liệu, giáo trình, xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Nhận thức tư duy đóng vai trò quyết định trong quá trình chuyển đổi số bởi vì chuyển đổi số chính là chuyển đổi các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số, trong đó người đứng đầu các cơ sở giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định cho sự thành công.
Đối với ngành giáo dục, chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích và là cơ hội để thu hẹp khoảng cách với các vùng, miền và mang lại cơ hội học tập nhiều người hơn và với chi phí rẻ hơn. Qua đó, người học được trải nghiệm nhiều hơn qua tương tác trên môi trường số, từ đó tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng hơn.
Trong quá trình chuyển đổi số sẽ có những cơ hội và không ít rào cản?
Thông qua học liệu số và môi trường học tập số mà mô hình, cách thức dạy học được đổi mới theo hướng hiệu quả hơn. Cụ thể, người học được trải nghiệm học qua mạng internet và qua các thiết bị di động; người học được cung cấp nhiều khóa học trực tuyến, học tập mọi lúc, mọi nơi và học từ xa; sử dụng công nghệ để đánh giá sự tiến bộ của người học và hướng tới học tập cá thể hóa.
Đây là cơ hội và cũng là thách thức cho quá trình đổi mới giáo dục ở mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, cũng có một số rào cản trong việc chuyển đổi số trong giáo dục như kỹ năng của người dạy và người học; tài nguyên số chưa được phát triển đồng bộ; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa và nguy cơ dẫn đến bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục trực tuyến.
Tư duy, nhận thức của người quản lý còn hạn chế, do đó chưa sẵn sàng cho việc chuyển đổi số hoặc chưa hình thành “văn hóa dữ liệu”. Trong đó nhận thức, tư duy của con người là then chốt bởi nhiều nhà quản lý giáo dục và giáo viên chưa muốn thay đổi hoặc chưa sẵn sàng cho sự thay đổi khi chuyển đổi số thực sự đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu.
Giáo dục 4.0 giúp phát triển trí thông minh tiềm ẩn
Giáo dục truyền thống và giáo dục 4.0 khác nhau như thế nào dưới góc độ của anh?
Giáo dục đã thay đổi trong nhiều thế kỉ, từ phạm vi kiến thức tới mô hình và không gian học tập. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều quan niệm học tập truyền thống đã thay đổi so với quá khứ, mở ra một viễn cảnh giáo dục rộng mở và linh hoạt hơn hay còn gọi là giáo dục 4.0.
Giáo dục 4.0 chú trọng đến khả năng sáng tạo và năng lực kiến thiết. Người học được giáo dục kiến thức và kỹ năng liên ngành, nhất là các kỹ năng quản trị và kỹ năng điều khiển máy móc. Giáo dục được phát triển như một hệ sinh thái, nơi mà mọi yếu tố được liên kết với nhau thông qua không gian mạng và điện toán đám mây. Quan hệ dạy và học được mở rộng không chỉ giữa giáo viên với học sinh mà còn là học sinh với học sinh, học sinh với mọi người xung quanh, học sinh với nguồn kiến thức mở trên mạng internet.
So với giáo dục truyền thống, giáo dục 4.0 có nhiều thay đổi. Thứ nhất, mục tiêu học tập được mở rộng. Giáo dục 4.0 sẽ hướng tới phát triển cá nhân một cách tổng thể, nghĩa là hướng tới giúp mỗi người phát triển tối đa các trí thông minh tiềm ẩn của mình.
Thứ hai, giáo viên là người kết nối. Tức là, giáo viên giúp người học có khả năng hiểu ý nghĩa của thông tin, kết hợp thông tin thành một bức tranh rộng lớn về thế giới. Giáo viên dựa trên nhu cầu học hỏi của người học để gợi mở và định hướng nhiều hơn là truyền đạt kiến thức. Phương pháp giảng dạy của giáo viên phải mang tính hệ thống, liên kết đa ngành, đa lĩnh vực, qua đó rèn luyện cho người học kỹ năng học tập suốt đời.
Thứ ba, tự học là yêu cầu bắt buộc. Người học phải tăng tính chủ động, khả năng tự định hướng các kiến thức mình cần và xây dựng lộ trình học tập riêng theo đòi hỏi của từng cá nhân. Không giới hạn thời gian, không gian học tập, người học có thể học mọi lúc, mọi nơi qua không gian mạng internet.
Thứ tư, độ tuổi học tập kéo dài suốt đời. Giáo dục 4.0 đã mở rộng độ tuổi học tập qua khái niệm “học tập suốt đời”. Các chuyên gia giáo dục cho rằng chưa thể xác định các kỹ năng nghề nghiệp tương lai cho người học vì nhiều công việc trong tương lai chưa xuất hiện. Do đó, người học cần phải có kỹ năng học tập suốt đời, không ngừng cập nhật kiến thức và tri thức để theo kịp các đòi hỏi công việc liên tục thay đổi trong xã hội.
Thứ năm, lớp học ở mọi nơi, mọi lúc. Thay cho trường lớp mang tính vật lý với giảng đường, thư viện và thời khóa biểu cố định, các trường trực tuyến đang phát triển và trở thành làn sóng giáo dục mới. Trường trực tuyến như Coursera, Udemy, edX… ngày càng trở nên phổ biến. Tài liệu học tập, sách tham khảo đều lưu trữ trên mạng thông qua các thiết bị kết nối internet như điện thoại thông minh, máy tính xách tay... người học trên toàn thế giới có thể tham gia vào các lớp học ảo bất cứ lúc nào.
Các trường đại học cần cung cấp các khóa học đại trà trực tuyến mở cho tất cả người dân nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục nhờ công nghệ số, đào tạo nâng cao kỹ năng số, hướng tới đào tạo cá thể hóa. |
Đào tạo những năng lực cốt lõi nào cho giáo viên?
Bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 đòi hỏi người thầy phải trau dồi kỹ năng và không ngừng học hỏi thế nào?
Giáo dục dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 gắn với giáo dục thông minh, với sự hỗ trợ của công nghệ 4.0, cung cấp khóa học ở mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa người học… Giáo dục thông minh đòi hỏi việc sử dụng công nghệ ở mọi khâu của quá trình giáo dục như dạy học, nghiên cứu, quản lý… kết nối chặt chẽ giữa trường học - nhà quản lý - doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi các năng lực như năng lực tự học, năng lực công nghệ, năng lực nghiên cứu, năng lực kết nối cộng đồng, năng lực ngoại ngữ… Do vậy, giáo dục 4.0 đòi hỏi các xu hướng dạy học trong nhà trường như giáo dục đa văn hóa, giáo dục STEM, dạy học trực tuyến, dạy học kết hợp, lớp học đảo ngược. Nói cách khác, vai trò của giáo viên cũng thay đổi. Người thầy trở thành người thiết kế, kiến tạo môi trường học tập và hướng dẫn học tập.
Do đó, kỹ năng mềm, năng lực phán đoán, tư duy phê phán, tư duy định lượng, năng lực thích ứng, dạy học trải nghiệm dựa trên sự thất bại, đánh giá trong học tập trực tuyến, giáo dục STEM và tích hợp công nghệ trong dạy học… trở thành những năng lực cốt lõi của giáo viên tương lai.
Vì vậy, cần phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên kiến thức, kỹ năng công nghệ thông tin, an toàn thông tin cần thiết để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Theo ông, cần phải tạo môi trường học tập tích cực cho các bạn trẻ thế nào để giúp các em tự tin, phát triển năng lực, phẩm chất, hướng tới việc trở thành những công dân toàn cầu?
Công dân toàn cầu là những người sống và làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau. Họ có thể có một hoặc nhiều quốc tịch mà không bị rào cản về ranh giới, địa lí cũng như văn hóa của các quốc gia trong nhận thức của mình.
Họ là những người có nền tảng kiến thức rất tốt về đất nước mình cũng như thế giới, có những kỹ năng toàn cầu cần thiết như kỹ năng giao tiếp, khả năng ngôn ngữ và ý thức toàn cầu. Do đó, cần phải phát triển cho công dân toàn cầu tương lai kỹ năng mềm, kỹ năng tự lập, kỹ năng công nghệ thông tin và thành thạo sử dụng máy tính, hiểu biết về trí thông minh nhân tạo và có nhận thức về trách nhiệm công dân để không đánh mất bản sắc dân tộc.
Vậy, phải làm gì để nâng cao nguồn nhân lực trẻ trong tương lai đạt chuẩn quốc tế?
Để nâng cao nguồn nhân lực trẻ đạt chuẩn quốc tế, các quốc gia cần đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong giáo dục và phát triển các kỹ năng thích ứng với chuyển đổi số trong tương lai. Có bốn vấn đề cơ bản thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục, đó là: phát triển hệ thống dữ liệu quốc gia về giáo dục; phát triển, khai thác hệ thống học liệu và môi trường học tập số; xây dựng và triển khai khung năng lực số cho học sinh phổ thông; phát triển nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin và chuyển đổi số.
Các trường đại học cần phát triển các ngành đào tạo giúp tăng cường chuyển đổi số quốc gia gắn với công nghệ số như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, Internet vạn vật, thực tế ảo/thực tế tăng cường, chuỗi khối, in ba chiều. Triển khai mô hình giáo dục tích hợp khoa học – công nghệ - kỹ thuật – toán học và nghệ thuật, kinh doanh, doanh nghiệp ở các trường phổ thông. Thực hiện đào tạo tập huấn hướng nghiệp để học sinh có các kỹ năng sẵn sàng cho môi trường số.
Thúc đẩy phát triển học liệu số (phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo, nghiên cứu khoa học) ở tất cả ngành học, môn học; hình thành kho học liệu số, học liệu mở dùng chung toàn ngành giáo dục, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, học tập suốt đời; tiếp tục đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Nói cách khác, các trường đại học cần cung cấp các khóa học đại trà trực tuyến mở cho tất cả người dân nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục nhờ công nghệ số, đào tạo nâng cao kỹ năng số, hướng tới đào tạo cá thể hóa.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030” kèm theo Quyết định số 1373/QĐ-TTg ngày 30/7/2021, trong đó cần ứng dụng công nghệ số và dạy học trực tuyến trong tổ chức các hoạt động giảng dạy và học tập góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Mọi công dân có trách nhiệm và quyền lợi được học tập thường xuyên, học suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để trở thành công dân số, công dân học tập toàn cầu.
Do đó, cần đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức các hoạt động học tập suốt đời.
Xin cảm ơn anh!
| Từ làn sóng người dân ùn ùn về quê, cần có tầm nhìn dài hạn về lực lượng lao động? Từ làn sóng dịch bệnh khiến người dân 'rồng rắn' về quê, cần nhìn nhận lại một cách nghiêm túc, phải chăng chúng ta chưa ... |
| Học trực tuyến: Học sinh cần có năng lực số, giáo viên phải thiết lập lại chương trình giảng dạy PGS.TS Chu Cẩm Thơ, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho rằng, muốn học trực tuyến tốt, học sinh cần có năng lực số ... |