| Nếu như trước đây, hoạt động mua bán người thường gắn với các hình thức tuyển dụng trực tiếp, dụ dỗ qua đường biên giới hay sử dụng vũ lực, thì nay, hành vi này đã chuyển dịch mạnh mẽ sang không gian số. (Nguồn: Quản trị mạng) |
Nguy hiểm hơn, tội phạm mua bán người trên không gian mạng triệt để lợi dụng tính ẩn danh, khó truy vết và xuyên biên giới nên ngày càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát, đe dọa an toàn của con người, đặt ra thách thức mới trong bảo vệ người dân.
Nguy cơ có thực
Nếu như trước đây, hoạt động mua bán người thường gắn với các hình thức tuyển dụng trực tiếp, dụ dỗ qua đường biên giới hay sử dụng vũ lực, thì nay, hành vi này đã chuyển dịch mạnh mẽ sang không gian số. Các đối tượng triệt để lợi dụng các nền tảng kỹ thuật số để tiếp cận, lừa đảo, khống chế hoặc dụ dỗ nạn nhân tham gia vào các hành vi bóc lột. Đây là hình thức phạm tội phi truyền thống nhưng để lại hậu quả nghiêm trọng đối với cá nhân và xã hội.
Về mặt tài chính: Thời gian gần đây đã xuất hiện một biến tướng mới cần cảnh báo: "bắt cóc online". Đây là thủ đoạn tội phạm sử dụng công nghệ (thông qua các cuộc gọi video trên ứng dụng như Zalo, Viber…) giả mạo lực lượng chức năng, đe dọa nạn nhân bằng những cáo buộc hình sự giả tưởng. Chúng ép nạn nhân tự cách ly khỏi gia đình, tạm trú tại khách sạn; giám sát, khống chế tâm lý thông qua mạng, buộc nạn nhân yêu cầu người thân phải chuyển tiền "chuộc người".
Hàng loạt nạn nhân đã bị cưỡng ép chuyển khoản với số tiền từ vài triệu đến hàng trăm triệu đồng, nhiều trường hợp rơi vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng sau khi bị lừa đảo hoặc khống chế tâm lý. Theo báo cáo của Công an TP. Hồ Chí Minh, từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8 năm 2025, đã xảy ra gần 20 vụ "bắt cóc trực tuyến"; các nạn nhân buộc phải chuyển hàng chục triệu đồng, có người lên đến hàng trăm triệu đồng để "được chuộc".
Về mặt tâm lý: Tổn thất vật chất chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Phía sau đó là những sang chấn tâm lý kéo dài, rối loạn lo âu, mất ngủ, trầm cảm và thậm chí là ý nghĩ tự tử ở một số nạn nhân, đặc biệt là người trẻ tuổi hoặc sống xa gia đình. Với sự trợ giúp của công nghệ số - tài khoản giả mạo, phần mềm che IP, trình tạo ảnh deepfake, thuật toán phân tích hành vi người dùng - các đối tượng phạm tội dễ dàng thiết kế những kịch bản tinh vi, mang tính cá nhân hóa cao nhằm thao túng tâm lý nạn nhân.
Thay vì cưỡng ép hay lừa gạt thô bạo, các đối tượng thường dẫn dụ nạn nhân bằng những hứa hẹn việc nhẹ lương cao, cơ hội du học, kết hôn với người nước ngoài, di cư hợp pháp…; khai thác triệt để các "khoảng trống cảm xúc" như cô đơn, mặc cảm, kỳ vọng đổi đời, đặc biệt ở phụ nữ, trẻ em, thanh niên thất nghiệp hoặc người có học vấn nhưng thiếu kinh nghiệm xã hội và kỹ năng nhận diện rủi ro trực tuyến. Mặc dù không có hành vi bắt giữ thực thể song mức độ thao túng, cô lập và khống chế tâm lý mà nạn nhân trải qua tương đương với một vụ bắt cóc thực thụ, nhiều trường hợp bị đe dọa nặng nề gây tổn thương nghiêm trọng đến tinh thần.
Theo Bộ Công an, giai đoạn 2014-2023, trung bình mỗi năm, Việt Nam phát hiện khoảng 240 vụ mua bán người với trên 570 nạn nhân. Riêng quý III/2024, các cơ quan chức năng đã điều tra xử lý 83 vụ việc, với 240 bị can và 269 nạn nhân, trong đó, gần 94% các vụ việc có yếu tố mạng xã hội, sử dụng tài khoản ảo, chiêu trò giả mạo tuyển dụng, hôn nhân, từ thiện hoặc mối quan hệ tình cảm để tiếp cận nạn nhân.
Về mặt danh dự, thân thể: Nạn nhân thường bị buộc phải cung cấp các dữ liệu nhạy cảm như căn cước công dân, số tài khoản ngân hàng, hình ảnh riêng tư, thậm chí video nhận tội giả mạo. Những thông tin này sau đó có thể bị sử dụng để tiếp tục đe dọa, lan truyền trái phép hoặc phục vụ cho các hoạt động phạm pháp khác trên không gian số. Tháng 4/2025, Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp Bộ Công an và Cảnh sát Hoàng gia Campuchia phá án đã bắt giữ 3 đối tượng trong đường dây cắt ghép hình ảnh của gần 1000 nạn nhân vào ảnh, video nhạy cảm để tống tiền với con số lên đến 200 tỷ VND.
Làm suy giảm lòng tin xã hội: Khi tội phạm ngày càng tinh vi trong việc giả danh cơ quan công quyền như Công an, Viện kiểm sát hoặc Tòa án, người dân dễ rơi vào trạng thái nghi ngờ, không biết nên tin vào đâu. Điều này đặt ra nguy cơ làm xói mòn uy tín của hệ thống hành chính - tư pháp, đồng thời gây khó khăn trong công tác thực thi pháp luật, tiếp nhận tố giác và triển khai các chương trình truyền thông cộng đồng.
| Theo Bộ Công an, giai đoạn 2014-2023, trung bình mỗi năm, Việt Nam phát hiện khoảng 240 vụ mua bán người với trên 570 nạn nhân. Riêng qúi III/2024, các cơ quan chức năng đã điều tra xử lí 83 vụ việc, với 240 bị can và 269 nạn nhân, trong đó gần 94% các vụ việc có yếu tố mạng xã hội, sử dụng tài khoản ảo, chiêu trò giả mạo tuyển dụng, hôn nhân, từ thiện hoặc mối quan hệ tình cảm để tiếp cận nạn nhân. |
| Lễ phát động chung tay phòng, chống mua bán người tại TP. Huế, tháng 8/2025. (Nguồn: VGP) |
Thách thức phi truyền thống
Trong bối cảnh tội phạm mua bán người ngày càng lợi dụng triệt để môi trường mạng, công tác phòng chống đang đối mặt với nhiều thách thức phi truyền thống, cả về mặt kỹ thuật, pháp lý lẫn tổ chức thực thi.
Không gian mạng rộng lớn, biên giới ảo khó kiểm soát. Đây là môi trường phi biên giới, không bị giới hạn bởi lãnh thổ hay pháp luật quốc gia, tạo điều kiện cho tội phạm dễ dàng ẩn mình và mở rộng phạm vi hoạt động xuyên quốc gia. Các đối tượng thường sử dụng các công nghệ mã hóa, ẩn danh, tài khoản ảo, máy chủ đặt tại nhiều quốc gia khác nhau để tránh bị phát hiện và ngăn chặn, trở thành thách thức lớn cho lực lượng chức năng vốn bị giới hạn về thẩm quyền khi truy vết tội phạm trên không gian mạng toàn cầu.
Nạn nhân sợ hãi, ít tố cáo. Phần lớn nạn nhân trong các vụ mua bán người là phụ nữ, trẻ em gái, thanh thiếu niên, những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, học vấn thấp, dễ bị tổn thương về tâm lý. Sau khi bị lừa bán hoặc ép buộc lao động, họ thường rơi vào trạng thái sợ hãi, xấu hổ, mất lòng tin vào cơ quan chức năng, hoặc bị các đối tượng đe dọa trả thù nếu tố cáo. Điều này dẫn đến tình trạng nạn nhân không dám khai báo hoặc không biết cách tiếp cận với cơ quan chức năng để được bảo vệ và hỗ trợ. Việc thiếu thông tin từ nạn nhân khiến quá trình điều tra, truy xét tội phạm càng thêm phức tạp.
Thiếu kênh tố giác thuận tiện, an toàn. Hiện nay, cơ chế, kênh tiếp nhận thông tin tố giác về hành vi mua bán người trên không gian mạng còn thiếu chuyên biệt, chưa phổ biến và thân thiện với người dân. Các công cụ tố cáo thường tập trung ở các kênh truyền thống, chưa có nền tảng trực tuyến tối ưu, bảo mật thông tin cá nhân, đặc biệt là dành cho nạn nhân ở các vùng sâu, vùng xa hoặc những người hạn chế về kỹ năng số. Điều này làm giảm hiệu quả phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội.
Công tác phối hợp giữa các bên liên quan còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi pháp luật trong nước, các nền tảng mạng xã hội và đối tác quốc tế còn thiếu đồng bộ, dẫn tới việc chậm trễ trong truy vết, xử lý và cứu nạn. Một số nền tảng mạng xã hội xuyên biên giới như Facebook, TikTok, Telegram còn chậm hoặc chưa thiện chí trong phối hợp cung cấp dữ liệu phục vụ điều tra khi có yêu cầu từ phía Việt Nam. Bên cạnh đó, pháp luật quốc tế và cơ chế hợp tác song phương, đa phương về phòng chống mua bán người trên không gian mạng vẫn còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với tốc độ phát triển của tội phạm công nghệ cao.
Hệ thống pháp luật hiện hành vẫn chưa thực sự theo kịp với sự biến đổi của loại hình tội phạm này. Trong khi Bộ luật Hình sự và Luật An ninh mạng chủ yếu ứng phó với các hành vi phạm pháp hữu hình hoặc hành vi tấn công mạng truyền thống, thì các biểu hiện mới như "bắt cóc tinh thần", thao túng ảo hay đe dọa qua giả lập công nghệ vẫn chưa có định danh pháp lý rõ ràng. Điều này tạo ra khoảng trống trong việc nhận diện, xử lý và phòng ngừa.
| Đoàn công tác liên ngành Việt Nam tham dự Hội nghị Octopus về phòng chống tội phạm công nghệ cao tại tòa nhà Hội đồng châu Âu ở thành phố Strasbourg, Pháp, tháng 6/2025. (Ảnh: Bảo Chi) |
Tăng cường bảo vệ người dân trên không gian mạng
Những khó khăn trên không chỉ là rào cản kỹ thuật hay pháp lý mà còn phản ánh sự thiếu hụt về công cụ quản lý, phối hợp và hỗ trợ nạn nhân trong môi trường số. Để nâng cao hiệu quả phòng, chống, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng nhằm từng bước thu hẹp không gian hoạt động của các đường dây mua bán người trên không gian mạng.
Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Hệ thống pháp luật hiện hành cần được rà soát, cập nhật nhằm phản ánh đầy đủ đặc trưng của các hành vi phạm tội mới trên không gian mạng. Bổ sung vào Bộ luật Hình sự các quy định về hành vi mua bán người trên không gian mạng và "bắt cóc qua mạng"; sửa đổi Luật An ninh mạng và Luật Phòng, chống mua bán người để mở rộng phạm vi điều chỉnh sang các dạng tội phạm phi truyền thống, có yếu tố xuyên biên giới và phi vật thể. Bổ sung các quy định ràng buộc trách nhiệm của các nền tảng xuyên biên giới như Facebook, TikTok, Telegram... trong việc phát hiện, ngăn chặn và gỡ bỏ kịp thời các tài khoản, nội dung liên quan đến hành vi lừa đảo, dụ dỗ mua bán người khi có yêu cầu từ phía cơ quan chức năng Việt Nam. Cần có chế tài xử phạt cần đủ mạnh để tạo áp lực buộc các doanh nghiệp công nghệ tuân thủ nghĩa vụ bảo vệ người dùng và hỗ trợ công tác điều tra.
Thứ hai, nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm công nghệ cao. Để thích ứng với môi trường tội phạm ngày càng số hóa, cần đầu tư có trọng điểm vào nguồn nhân lực, công nghệ và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của lực lượng chức năng. Thành lập các đơn vị chuyên trách với năng lực điều tra số, phân tích dữ liệu lớn và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI); triển khai hệ thống phân tích hành vi bất thường trên các nền tảng mạng xã hội, nhằm phát hiện sớm dấu hiệu giả mạo, thao túng tâm lý hoặc huy động chuyển tiền bất hợp pháp.
Thứ ba, tăng cường giáo dục nhận thức và truyền thông cộng đồng. Trong môi trường số, con người chính là "tường lửa" đầu tiên. Do đó, cần xây dựng chương trình giáo dục về "an ninh con người trong không gian mạng", trang bị kỹ năng số cho mọi người dân, nhất là các nhóm dễ bị tổn thương như học sinh, sinh viên, người tìm việc hoặc người cao tuổi.
Thứ tư, tăng cường hợp tác liên ngành trong nước và đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực thi pháp luật và các bộ, ngành trong chia sẻ thông tin, phối hợp điều tra, giải cứu nạn nhân. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và chia sẻ dữ liệu xuyên biên giới nhằm hỗ trợ hiệu quả trong trao đổi dữ liệu, xử lý tội phạm xuyên biên giới, cập nhật xu hướng và nâng cao năng lực phản ứng.
Năm là, thiết lập các kênh tiếp nhận tố giác thuận tiện, an toàn và bảo mật kết hợp với cơ chế hỗ trợ và tái hòa nhập cho nạn nhân. Cần sớm thiết lập đường dây nóng chuyên biệt 24/7 để tiếp nhận phản ánh và hỗ trợ khẩn cấp các nạn nhân bị lừa đảo, khống chế tinh thần hoặc cưỡng ép qua mạng. Xây dựng mô hình hỗ trợ theo hướng đa tầng, kết hợp giữa tư vấn tâm lý, hỗ trợ pháp lý, phục hồi danh dự và đào tạo kỹ năng số nhằm giúp nạn nhân tái hòa nhập bền vững.