Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. (Nguồn: TTXVN). |
Ta hãy cùng ôn lại tình hình đất nước từ khi Việt Nam tuyên ngôn độc lập, để rõ hoàn cảnh ra đời của lời kêu gọi ấy.
Ngay sau khi ta làm cuộc cách mạng Tháng 8/1945, thực dân Pháp được Đồng minh giúp đỡ đã bắt đầu thực hiện âm mưu xâm chiếm lại thuộc địa Việt Nam bằng quân sự. Chúng ta cần hòa bình để xây dựng đất nước, nên đã thực hiện chính sách hoàn hoãn. Ta ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Do đó, ta đã giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, đuổi quân Tưởng về nước, chuẩn bị lực lượng để kháng chiến lâu dài. Bội ước Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước, Pháp đã tấn công các phòng tuyến của quân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân Pháp đã chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị đánh vào những cơ quan đầu não của ta ở Hà Nội.
Những ngày 15, 16 tháng 12/1946, chúng đã nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17, chúng đã gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18/12, tướng Molière gửi cho ta tối hậu thư và đưa ra những đòi hỏi vô lý. Chắc chắn Pháp sẽ châm ngòi chiến tranh trong toàn quốc vào ngày 20/12/1946.
Tình hình cấp bách, đòi hỏi những quyết định chiến lược kịp thời và sáng suốt. Ngày 18-19/12/1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông, Hồ Chí Minh đã chủ trì một cuộc họp với tinh thần đại diện toàn Đảng, toàn quân để quyết định phát động cuộc Kháng chiến chống Thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Chiều ngày 19/12, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày, giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. Đúng 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy đèn Bờ Hồ, Hà Nội đã phá máy, quân dân Thủ đô đã nổ súng mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Ngay giữa lúc tiếng súng kháng chiến toàn quốc rền vang ở Hà Nội và trên cả nước, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi khắp nơi qua Đài phát thanh Việt Nam, kêu gọi trăm dân:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch là tiếng gọi của non sông đất nước, khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước của dân tộc, làm cho cả nước đứng lên chiến đấu, với ý chí “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Có thể nói, ngày toàn quốc kháng chiến đã thể hiện một chiến lược quân sự - chính trị lâu dài và gian khổ, bám sát tình hình thực tế, chọn đúng mặt trận chính, biến bị động thành chủ động. Một chiến lược dẫn đến thắng lợi cuối cùng: Điện Biên Phủ.