Rạng sáng ngày 5/6/1967, cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ ba đã được phát động bằng việc không quân Israel ném bom các sân bay của Ai Cập. Lần đầu tiên, sức mạnh quân sự của Nhà nước Do Thái và sức mạnh đoàn kết của thế giới Ảrập được kiểm chứng. Cuộc chiến tranh chỉ diễn ra trong 6 ngày, những thiệt hại về con người và vật chất không quá lớn, nhưng những hậu quả mà nó để lại còn kéo dài cho tới tận ngày nay.
Từ sai lầm của Ai Cập…
Từ đầu năm 1967, hầu hết các nhà quan sát và các chuyên gia phân tích đều cho rằng khó có khả năng tái diễn một cuộc chiến tranh giữa những người Ảrập và người Israel. Mặc dù từ năm 1964, căng thẳng trong khu vực không ngừng tăng lên bắt nguồn từ cuộc chạy đua vũ trang giữa Israel và Ai Cập, nhưng tất cả đều tin rằng Israel đang đánh giá quá cao mối đe dọa đến từ Ai Cập nhằm giành được những khoản viện trợ khổng lồ từ Mỹ cũng như là một cam kết đảm bảo an ninh trong trường hợp bị tấn công. Sự vượt trội về quân sự của Israel và tình trạng chia rẽ giữa xu hướng "cấp tiến" và "bảo thủ" trong thế giới Ảrập càng khiến người ta tin rằng nếu hòa bình là không thể, thì chiến tranh cũng khó xảy ra.
Nhưng ở Cairo lúc đó người ta lại đánh giá hoàn toàn khác. Không hề che dấu ý định xóa sổ nhà nước Do Thái, Tổng thống Nasser cho rằng Israel không thể tiến hành chiến tranh nếu không có viện trợ của nước ngoài, đồng thời cũng không thể chiến đấu đồng thời trên cả hai mặt trận, với cả Ai Cập và Syria cùng một lúc. Đúng là lúc đó có vẻ như không một cường quốc châu Âu nào sẵn lòng ủng hộ hết mình cho Israel, trong khi Mỹ đang sa lầy ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Ai Cập tỏ ra sẵn sàng gây chiến và cho rằng quân đội của họ đủ mạnh để đánh bại đối phương, nhưng lại đánh giá quá thấp đối thủ, thậm chí không biết rằng Israel chỉ chờ một cái cớ để giành sự ủng hộ chính trị của Mỹ và Anh cho một hành động quân sự ở quy mô lớn. Về phần mình, Tel Aviv ý thức được rằng đất nước Israel nhỏ bé khó có khả năng phòng thủ trước các cuộc tấn công, và cách tốt nhất là chuyển chiến trường sang lãnh thổ của đối phương. Yitzhak Rabin, khi đó là Tổng Tư lệnh quân đội, đã vạch ra một vành đai an ninh lý tưởng cho Israel chạy từ Litani, qua thung lũng sông Jordan cho tới kênh đào Suez, và kế hoạch này chỉ có thể trở thành hiện thực nếu có được sự ủng hộ của quốc tế.
…đến sự mập mờ của các nước lớn
Điều Tel Aviv chờ đợi đã đến. Ngày 14/5/1967, quân đội Ai Cập tiến vào bán đảo Sinai thay thế lực lượng mũ nồi xanh của Liên hợp quốc, và Israel nhận thấy họ đã mất một trong những vùng đất quan trọng giành được trong cuộc chiến tranh năm 1956. Ngày 22/5, Nasser ra lệnh phong tỏa eo biển Tiran nằm giữa vịnh Akaba và biển Đỏ, làm dấy lên lo ngại về "một vụ Suez" mới. London và Washington coi đó là một hành động xâm lược, nhưng lại không có biện pháp cứng rắn như trong vụ kênh đào Suez năm 1956, mà chỉ yêu cầu Cairo bảo đảm cho tàu bè quốc tế ra vào vịnh Akaba. Ai Cập thẳng thừng từ chối bởi họ có được sự ủng hộ chính trị của Mátxcơva. Tất cả những điều đó khiến ông Nasser thêm ảo tưởng về sức mạnh của mình, trong khi nguy cơ cả khu vực Trung Đông, với nguồn tài nguyên giàu có, sẽ rơi vào vòng ảnh hưởng của Liên Xô khiến Mỹ và Anh quyết định bật đèn xanh cho Tel Aviv. Ngày 3/6, Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk công khai tuyên bố: "Không còn chỗ cho một giải pháp thương lượng". Ngày hôm sau, cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ Walter Rostow khẳng định sự cần thiết của một cuộc chiến tranh mới và kết quả của nó là thắng lợi của Israel.
Và hậu quả
Quân đội hùng mạnh của Israel không cần phải chờ gì hơn nữa. 7h45 ngày 5/6/1967, không quân Israel bất ngờ oanh kích dữ dội các sân bay của Ai Cập, mở màn cuộc chiến. Và chỉ trong 6 ngày, Israel đã chiếm được toàn bộ dải Gaza, khu bờ Tây sông Jordan, cao nguyên Golan, bán đảo Sinai và thành phố Thánh Jerusalem, mở rộng lãnh thổ lên gấp 4 lần và đẩy thêm hơn 400.000 người dân Palestine đi tị nạn ở Jordan.
Cuộc chiến tranh rõ ràng là một bước ngoặt đối với Israel cũng như khu vực Trung Đông. Với thắng lợi vang dội này, Israel đã khẳng định là một siêu cường quân sự ở khu vực, thậm chí là trên phạm vi quốc tế. Nền kinh tế Israel cũng được hưởng lợi không ít với những khoản viện trợ khổng lồ của Mỹ. Sự mở rộng lãnh thổ đã tạo điều kiện thúc đẩy sự trở về của người Do Thái, làm biến đổi cơ cấu dân số trong khu vực. Sau 40 năm, số người Do Thái đã tăng từ 2,4 lên 5,5 triệu người.
Nhưng có một thứ đã bị đánh cắp sau cuộc chiến này, đó chính là hòa bình. Có thể nói, cuộc chiến tranh năm 1967 là cuộc chiến cuối cùng mà Israel giành thắng lợi. Kể từ đó đến nay, Israel đã dính líu vào 6 cuộc xung đột khác và đều kết thúc bằng một sự rút lui hay thất bại. Cuộc chiến tranh Kippour năm 1973 kết thúc bằng việc Israel buộc phải rút khỏi bán đảo Sinai; cuộc chiến tranh Lebanon năm 1982 và năm 2006 đều kết thúc bằng việc rút quân vô điều kiện; phong trào Intifada lần thứ nhất dẫn đến việc ký kết hiệp định Oslo; và phong trào Intifada lần thứ 2 dẫn tới việc phá bỏ các khu định cư ở dải Gaza. Các cuộc chiến tranh trên đã làm khoảng 5.000 người Do Thái và 50.000 người Ảrập ở Ai Cập, Syria, Lebanon và Palestine thiệt mạng, nhiều thành phố, làng mạc bị tàn phá; và Trung Đông trở thành vùng đất màu mỡ cho chủ nghĩa khủng bố cắm rễ và phát triển.
Có thể nói, cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967 là kết quả của một chuỗi những sai lầm từ tất cả các bên. Và trên hết, 40 năm sau, ngày thứ 7 của cuộc chiến tranh này vẫn chưa được khép lại.Chí Thành