📞

Đại dịch Covid-19 và các nền kinh tế mới nổi: Những bước lùi khó cưỡng

Tường Vy 13:48 | 19/09/2021
Bài báo ‘Bước thụt lùi nghiêm trọng ở các nước mới nổi’ được đăng trên báo Le Monde mới đây cho rằng đại dịch Covid-19 đã cản trở bước tiến của các nền kinh tế mới nổi.
Quỹ Tiền tệ quốc tế cảnh báo rằng nhiều việc làm sẽ bị “xóa sổ” vĩnh viễn, nguyên do là chuyển đổi số trong đại dịch Covid-19. (Nguồn: DW)

Các thống kê chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng của các quốc gia mới nổi có dấu hiệu chậm lại trong những năm gần đây và hàng triệu người rơi vào cảnh nghèo đói.

Thực tế đáng ngại

Đối với hãng xe hơi Ford, thị trường Ấn Độ chỉ còn là quá khứ.

Ngày 9/9, nhà sản xuất ô tô Mỹ thông báo sẽ rút khỏi nước này sau khi ghi nhận khoản thua lỗ hơn 2 tỷ USD trong 10 năm qua. Đây là kết cục đáng buồn và bất ngờ đối với một tập đoàn mà chỉ vài năm trước vẫn xem đất nước châu Á 1,3 tỷ dân này là một trong những thị trường ô tô hứa hẹn nhất hành tinh.

Năm 2020, Harley-Davidson cũng đã phải rời bỏ Ấn Độ. General Motors đã rút lui vào năm 2017.

Trước thực tế này, chuyên gia nghiên cứu Rebecca Ray của Trung tâm chính sách phát triển tại toàn cầu thuộc Đại học Boston (Mỹ), nhận định: “Việc các công ty lớn có vốn đầu tư dài hạn như Ford phải rút khỏi một quốc gia mới nổi như Ấn Độ là điều đáng lo ngại. Cho dù sự suy thoái của nước này bắt đầu từ chục năm trước, nhưng rõ ràng khủng hoảng Covid-19 đang làm trầm trọng thêm xu hướng đó”.

Cuộc khủng hoảng Covid-19 phá vỡ khái niệm “mới nổi” phổ biến vào những năm 2000, khi các ngân hàng đầu tư và công ty tư vấn sử dụng khái niệm này để chỉ các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh và hội nhập hoàn toàn vào kinh tế thế giới.

Tuy nhiên, kể từ năm 2020, tất cả các nước ngoại trừ Trung Quốc đều lao dốc từ đỉnh cao.

Với một số nước, như Ấn Độ và Mexico, quá trình này diễn ra rất nhanh, với tốc độ suy thoái lần lượt là 8,7% và 9,1% vào năm 2020.

Nới rộng khoảng cách

Đánh giá theo tốc độ tăng trưởng, các quốc gia mới nổi không còn tạo thành một nhóm đồng nhất do khoảng cách ngày càng bị nới rộng tính đến thời điểm năm 2020.

Xét trong cùng khu vực, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Philippines giảm 9,5% trong khi của Việt Nam tăng 2,9%.

Suy thoái kinh tế được kiềm chế ở châu Á, song lại được thể hiện rất rõ ở Nam Mỹ.

Trong khi đó, ở châu Phi, dù tốc độ tăng trưởng nhìn chung cao hơn so với phần còn lại của thế giới trong giai đoạn trước đại dịch (3,6% so với 2,7% vào năm 2019), nhưng thành quả này đã rơi về dưới mức trung bình toàn cầu kể từ khi đại dịch bắt đầu.

Phó Giám đốc Trung tâm phát triển của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) Federico Bonaglia nêu lên một thực tế khác: “Thời gian khủng hoảng, trong khi việc sử dụng các dịch vụ y tế từ xa bùng nổ ở Trung Quốc và Indonesia, thì cả Lào và Campuchia lại rơi vào tình trạng thiếu điện”.

Trong khi đó, tầng lớp trung lưu, một chỉ số khác chỉ sự phát triển ở các nước mới nổi, cũng bị thu hẹp với cuộc sống của hàng triệu gia đình đang rơi xuống dưới mức nghèo khổ.

Trong một báo cáo được công bố vào năm 2020, Ngân hàng Thế giới (WB) chỉ ra rằng các quốc gia có thu nhập trung bình sẽ chiếm đến 80% trong số 100-150 triệu người rơi vào cảnh cùng cực của thế giới do hậu quả của khủng hoảng Covid-19.

Khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là Đông Nam Á, tiếp theo là khu vực châu Phi ở phía Nam sa mạc Sahara. Những tầng lớp nghèo mới này chủ yếu làm việc trong khu vực phi chính thức, trong lĩnh vực sản xuất hoặc xây dựng và sống tập trung ở các đô thị.

Tăng tốc chuyển đổi số

Các nước mới nổi chống chọi với khủng hoảng yếu hơn các nền kinh tế phát triển. Các chuyên gia cho rằng nguyên do là các nước giàu sở hữu nguồn lực tài chính dồi dào hơn và các ngân hàng trung ương có thể làm mọi cách để bảo vệ nền kinh tế của họ.

Khủng hoảng y tế dường như không ảnh hưởng nhiều đến châu Phi và Đông Nam Á trong năm 2020, nhưng cuối cùng đã giáng những đòn nặng nề vào các khu vực này trong những tháng gần đây, chủ yếu do việc tiếp cận vaccine khó khăn hơn.

Năm 2020, các thị trường mới nổi chứng kiến đồng tiền giảm giá hơn 20% so với đồng USD. (Nguồn: CNN)

Tháng 4/2021, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo rằng nhiều việc làm đã mất trong khủng hoảng Covid-19 sẽ bị “xóa sổ” vĩnh viễn, do các lực lượng chuyển đổi số hóa và tự động hóa dây chuyền sản xuất tăng tốc rất nhanh trong 18 tháng qua.

Trong thời kỳ khủng hoảng, những robot phục vụ bàn đầu tiên đã xuất hiện trong các nhà hàng và thực tế, công nghệ kỹ thuật số đã xâm chiếm mọi lĩnh vực của nền kinh tế.

Tháng 4/2021, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo rằng nhiều việc làm đã mất trong khủng hoảng Covid-19 sẽ bị “xóa sổ” vĩnh viễn, do các lực lượng chuyển đổi số hóa và tự động hóa dây chuyền sản xuất đã tăng tốc rất nhanh trong 18 tháng qua.

Các công việc đòi hỏi ít kỹ năng, hoặc lương thấp, tập trung ở các nước có thu nhập trung bình và thấp, là những công việc bị đe dọa nhiều nhất.

Ví dụ, trong một báo cáo công bố tháng 5/2021, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) ước tính từ nay đến năm 2022, ở Ấn Độ sẽ có khoảng 3,16 triệu việc làm trong ngành công nghệ thông tin biến mất vì tự động hóa.

Các quốc gia mới nổi sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi việc tự động hóa các công việc hoặc robot hóa nhân công, với 85% việc làm bị đe dọa trong 20 năm tới, so với 45% ở Mỹ.

Gánh nặng nợ nần

Cuộc khủng hoảng cũng làm tăng gánh nợ của các quốc gia mới nổi vào ở đúng thời điểm các nước cần phục hồi kinh tế hơn bao giờ hết.

Theo số liệu mới nhất từ Viện tài chính quốc tế (IIF), một hiệp hội các tổ chức tài chính có chi nhánh ở nhiều nơi trên thế giới, nợ của các quốc gia mới nổi (trừ Trung Quốc) đạt kỷ lục mới là 36.000 tỷ USD trong quý II/2021.

Nợ công tăng vọt từ 52% lên 62% GDP trong khoảng thời gian từ quý IV/2019 đến quý II/2021, trong khi tỷ trọng của khoản hoàn trả đang tăng lên cao hơn.

Báo cáo công bố ngày 15/9 của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển cho biết, trong năm 2020, các thị trường mới nổi đã chứng kiến đồng tiền của họ giảm giá hơn 20% so với đồng USD, khiến giá trị các khoản nợ bằng ngoại tệ tăng lên.

Quyết định tăng lãi suất ở Mỹ, dù nhỏ nhất, cũng có thể dẫn đến tình trạng dòng vốn chảy ra từ các nước mới nổi, làm suy yếu đồng tiền bản địa và tăng chi phí nợ, trong khi quá trình phục hồi kinh tế của họ đang diễn ra chậm và muộn hơn nhiều.