![]() |
| Biểu tình ở ngoài khu vực họp COP-19 tại Warsaw (Ba Lan). |
Trong bối cảnh các vòng đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu tiến triển hết sức chậm chạp, đòi hỏi phải tăng cường vai trò của ngoại giao để thúc đẩy giải quyết những bế tắc giữa các nước và các nhóm nước, nhằm đạt được đồng thuận quốc tế khắc phục hậu quả của biến đổi khí hậu trước khi quá muộn. Do đó, những năm gần đây, ngoại giao biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên phổ biến và được nhiều nước, tổ chức quốc tế và khu vực áp dụng.
Thiên tai và các hiện tượng khí hậu khắc nghiệt khác đang gia tăng ở hầu hết các nơi trên thế giới. Nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp tục tăng nhanh chưa từng có và đang là mối lo ngại của các quốc gia trên thế giới. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới: Đến năm 2080, sản lượng ngũ cốc có thể giảm 2-4%, giá sẽ tăng 13-45%, tỷ lệ dân số bị ảnh hưởng của nạn đói chiếm 36-50%; mực nước biển dâng cao gây ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, và gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai. Các công trình hạ tầng được thiết kế theo các tiêu chuẩn hiện tại sẽ khó an toàn và cung cấp đầy đủ các dịch vụ trong tương lai.
Trụ cột của chính sách đối ngoại
Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề biến đổi khí hậu, hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho mình một chiến lược chống biến đổi khí hậu phù hợp, coi đó là một trong những nhân tố cốt lõi đảm bảo lợi ích và sự phát triển bền vững của quốc gia. Từ đó, một xu thế mới xuất hiện trong quan hệ quốc tế hiện đại, đó là ngoại giao biến đổi khí hậu. Công cụ này đã thực sự trở thành một trụ cột trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia.
Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, do đó các quốc gia không thể đơn thương độc mã giải quyết mà đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế, khu vực, sự chung tay góp sức của tất cả các quốc gia, bất kể giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển.
Tuy nhiên, đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu liên tục đi vào bế tắc do các quốc gia hoặc nhóm quốc gia bất đồng về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong việc hạn chế khí thải gây hiệu ứng nhà kính - thủ phạm làm trái đất ấm lên, gây biến đổi khí hậu. Nước nào cũng lúng túng trước bài toán giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích riêng quốc gia và lợi ích chung toàn thế giới. Điều trớ trêu là một số nước lớn xả khí nhà kính nhiều nhất lại không muốn mở hầu bao chi tiền nhiều để giảm bớt lượng khí thải đó.
Những bế tắc khó gỡ
Để hóa giải các mâu thuẫn nảy sinh nhằm bảo vệ hành tinh chung, một văn bản thoả thuận gọi là Nghị định thư Kyoto đã được thông qua tại Nhật Bản vào năm 1997, chính thức có hiệu lực ngày 16/2/2005, quy định đến năm 2012 các nước công nghiệp phải giảm lượng khí thải nhà kính trung bình 7-8% so với lượng khí thải năm 1990. Các quốc gia đặt hy vọng vào vai trò và ý nghĩa rất tích cực của Nghị định thư Kyoto, nhưng trên thực tế cho đến nay vẫn tỏ ra khó khả thi.
| "Nếu không phải chúng ta thì là ai? Nếu không phải bây giờ thì là bao giờ? Nếu không phải ở Warsaw thì ở đâu? Chúng ta có thể chấm dứt sự điên rồ ấy. Ngay tại đây, ở Warsaw... Đây là Hội nghị lần thứ 19 nhưng chúng ta có lẽ không nên đếm nữa, bởi vì đất nước tôi không chấp nhận việc chúng ta cần đến COP30 hay COP40 mới giải quyết biến đổi khí hậu..." Trưởng đoàn Philiipines tại Hội nghị Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 19 (COP-19), ông Yeb Sano đã bật khóc khẩn thiết kêu gọi đồng nghiệp các nước cùng đưa ra quyết định chống biến đổi khí hậu. |
Diễn biến khí hậu trên trái đất vẫn tiếp tục theo chiều hướng xấu. Một báo cáo mới nhất của Liên hợp quốc cho thấy: Lượng khí thải CO2 đã tăng thêm 20% từ năm 2000. Gần đây nhất, một dự án nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cũng chỉ ra nhiệt độ trái đất đã tăng thêm 4oC so với thời kỳ trước khi ngành công nghiệp thế giới bùng nổ (sau thập niên 1950) và cao hơn mục tiêu 2oC đặt ra bởi Liên hợp quốc trước đây.
Trong tình thế Nghị định thư Kyoto, công cụ để ràng buộc các nước có trách nhiệm trong việc bảo vệ khí hậu toàn cầu, hết hiệu lực vào cuối năm 2012, các nước đã nỗ lực và hy vọng cho ra đời một thỏa thuận quốc tế mới gia hạn cho Nghị định, nhằm cắt giảm lượng khí thải nhiều hơn và bảo vệ môi trường trái đất hiệu quả hơn. Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 18 (COP-18) tại Doha năm 2012 dù thống nhất kéo dài Nghị định thư Kyoto, nhiều nước vẫn chỉ dừng ở tuyên bố chung chung không mang tính ràng buộc về việc cắt giảm khí thải. Đặc biệt, hai nước lớn chiếm lượng khí nhà kính lớn nhất, Mỹ và Trung Quốc, vẫn đứng ngoài sự ràng buộc pháp lý của Nghị định thư "hậu Kyoto".
Tiếp đến, các nước Nga, New Zealand, Canada và Nhật Bản từ chối ký vào quyết định gia hạn Nghị định thư Kyoto. Như vậy, Nghị định này sẽ không có hiệu lực pháp lý đối với trên 80% tổng lượng khí thải của thế giới. Đây là sự thất vọng lớn nhất mà COP-18, cũng như các Hội nghị trước đây như COP-17 ở Durban (Nam Phi), COP-16 ở Cancun (Mexico), COP-15 ở Copenhagen (Đan Mạch)… mang lại. Tuy nhiên, như lời tuyên bố của đại diện nước chủ nhà Qatar, Hội nghị COP-18 đã đạt được một số điểm nhất trí có ý nghĩa nhất định thể hiện trong Hiệp định Doha, còn gọi là Nghị định thư Kyoto II hay hậu Kyoto. Trước hết, thời hạn thực hiện nghị định thư Kyoto được kéo dài đến hết ngày 31/12/2020. Ngoài ra, các nước có liên quan gồm Liên minh châu Âu dẫn đầu là nước Đức, Croatia, Iceland và tám nước công nghiệp hóa chiếm 15% khí thải thế giới cam kết giảm khí thải chậm nhất vào năm 2014.
Đến COP 19 tại Warsaw (Ba Lan), các đại biểu đã đạt được sự nhất trí về một số nguyên tắc chính mang "tính thỏa hiệp" cho một thỏa thuận mới để chống lại sự biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Các đoàn đàm phán đã đạt được sự nhất trí rằng tất cả các nước sẽ có "những đóng góp riêng" nhằm góp phần cắt giảm khí thải CO2. Các nước phải đưa ra kế hoạch cắt giảm khí thải của mình vào quý I/2015 để chuẩn bị cho việc ký kết thỏa thuận vào cuối năm đó tại Hội nghị ở Paris (Pháp). Hội nghị lần này đã đặt nền móng rất tốt cho các cuộc đàm phán tiếp theo sẽ diễn ra vào năm sau tại Lima (Peru) và hội nghị tại Paris vào năm 2015. Kết quả của Hội nghị lần này cũng góp phần tháo gỡ bế tắc giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển về vấn đề chia sẻ trách nhiệm trong việc hạn chế khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực ngăn ngừa và khắc phục hậu quả biến đổi khí hậu. Thông qua các cơ chế hợp tác, Việt Nam có thể tiếp cận các cơ chế mới đang hình thành để tiếp nhận hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Việc tăng cường các hoạt động hợp tác, hội nhập với các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong quá trình thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu và các điều ước quốc tế có liên quan cũng sẽ góp phần nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên thế giới./.
Ba trụ cột chính trong ngoại giao khí hậu hay ngoại giao biến đổi khí hậu là thúc đẩy các hoạt động chống biến đổi khí hậu, ủng hộ việc thực hiện các chính sách, biện pháp trong lĩnh vực biến đổi khí hậu và an ninh quốc tế (Cơ quan đối ngoại châu Âu)
Lam Sơn
