Bà Nguyễn Thị Bình trả lời phỏng vấn báo chí. |
Với vai trò là người trợ giúp vòng ngoài cho Phái đoàn đàm phán của Việt Nam tại Paris trong những năm 1968 - 1973 và một số lần là phiên dịch tiếng Anh trong các cuộc tiếp xúc không chính thức cho Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình, bà Tôn Nữ Thị Ninh cho biết tuy bà không được chứng kiến các cuộc đàm phán chính thức nhưng vẫn cảm thấy là người may mắn khi được gián tiếp đóng góp cho sự kiện lịch sử này.
“Vườn ươm" lực lượng
Đánh giá về địa điểm diễn ra Hội nghị 4 bên về hòa bình ở Việt Nam trong giai đoạn 1968-1973, bà Tôn Nữ Thị Ninh khẳng định, Paris là lựa chọn tuyệt vời cho quá trình đàm phán, bởi nhiều lý do, nhưng tựu trung lại, Thủ đô nước Pháp thời điểm đó hội đủ hai yếu tố địa lợi và nhân hòa.
Lúc đó, tại Pháp, có phong trào gồm nhiều giai tầng xã hội ủng hộ hòa bình cho Việt Nam rất mạnh. Ở đây còn có một cộng đồng người Việt đông đảo, tuy định cư đã lâu nhưng rất gắn bó với đất nước. Rất nhiều người Việt tham gia các tổ chức như Hội trí thức yêu nước, Hội sinh viên yêu nước, Hội người Việt yêu nước... và các Hội đó chính là "vườn ươm" lực lượng hậu thuẫn cho Chính phủ CMLTCHMNVN.
Phái đoàn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời rất đặc biệt, khác với mọi đoàn đàm phán khác - bà Ninh chia sẻ - bởi đoàn không chỉ có những nhà ngoại giao chuyên lo công việc thương thảo mà còn có một bộ phận đặc trách công tác vận động, xây dựng lực lượng. Thời điểm này, bà Nguyễn Thị Chơn (cố Ủy viên Ban Phụ vận Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, phu nhân của cố Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định Trần Bạch Đằng) được điều sang Pháp thay thế bà Đỗ Duy Liên và bà Chơn là một trong những phụ tá đắc lực cho Bộ trưởng, Trưởng đoàn đàm phán Nguyễn Thị Bình trong công tác này. Là người có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác vận động nội thành, với phong thái lúc nào cũng ung dung, khẽ khàng, bà Chơn rất biết cách tiếp xúc, vận động những người trí thức, tôn giáo, chính khách vốn luôn có những chính kiến, quan điểm khác nhau.
Biết cô gái trẻ gốc cố đô Huế đang giảng dạy tại Đại học danh giá Sorbonne có tinh thần yêu nước, bà Chơn đã gặp, bồi dưỡng bà Ninh để đưa về hoạt động nội thành Sài Gòn. Trong 6 tháng ròng, cứ 1-2 tuần, bà Tôn Nữ Thị Ninh lại được bố trí gặp bà Nguyễn Thị Chơn ở nhà riêng của các công nhân kiều bào. Mỗi lần đến lớp "tập huấn", bà Chơn đều được một thanh niên người Pháp hộ tống, lần thì người này, lần thì người khác. Mãi sau này, bà Tôn Nữ Thị Ninh mới biết đó là những người được Đảng Cộng sản Pháp bố trí để bảo vệ cho bà Chơn. Nhờ có "vườn ươm" tại Paris, sau khi Hiệp định được ký kết, có những trí thức đã về Sài Gòn tham gia đấu tranh chính trị, tăng cường cho lực lượng nội thành.
Những cảm nhận riêng
Trong những lần phối hợp với phái đoàn miền Bắc về công việc biên dịch tài liệu, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã có dịp tiếp xúc với ông Xuân Thủy - khi đó là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris. Biết về năng lực cũng như tình cảm dành cho dân tộc của bà Tôn Nữ Thị Ninh, ông Xuân Thủy đã chủ động mời bà tham dự các cuộc họp thông báo tình hình của phái đoàn để tạo sự gần gũi, gắn kết chặt chẽ với cộng đồng người Việt yêu nước tại Pháp. Theo bà Ninh, ông Xuân Thủy là người cởi mở, dễ gần. Bà cũng rất ấn tượng khi tham gia các hoạt động do ông Phạm Văn Ba, Trưởng Phòng Thông tin của Chính phủ CMLT tại Paris tổ chức, kể cả nhân dịp những Trại hè của Hội sinh viên yêu nước.
Khi được hỏi cảm nhận về bà Nguyễn Thị Bình, bà Ninh cho biết, mọi người ở Paris lúc đó đều vừa ngạc nhiên, vừa thú vị khi gặp một người phụ nữ có vẻ đẹp Việt Nam như bà Bình. Dù luôn bận bịu và phải đương đầu với nhiều khó khăn nhưng Bà Bình lúc nào cũng đàng hoàng, duyên dáng, lịch lãm, tự tin và có sức hút. Bà nói tiếng Pháp lưu loát, hiểu tiếng Anh và có khả năng hòa đồng nhanh và tự nhiên. Bà cũng được báo chí quốc tế khen ngợi về khả năng truyền thông và ứng xử với báo chí rất tốt.
Theo bà Ninh, không những chỉ cộng đồng người Việt tại châu Âu tự hào về bà Trưởng đoàn Nguyễn Thị Bình mà nhiều chính khách quốc tế như Cố Thủ tướng Thụy Điển O. Palme hay Tổng thống Bouteflica của Algeria hiện nay cũng luôn nể phục, quý trọng bà Bình.
Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đang họp bàn tại Hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Paris. (Ảnh: Bảo tàng lịch sử quốc gia Việt Nam) |
Bài học không bao giờ cũ
Đánh giá về thành công của ngoại giao Việt Nam trên bàn đàm phán Paris năm 1973, bà Tôn Nữ Thị Ninh cho rằng, đó là do Việt Nam đã thành công trong việc tổ chức và gắn kết các Mặt trận và đặc thù của thành công này chính là tính chất Mặt trận. "Thời đó, khái niệm Mặt trận không hề hình thức. Các thành phần trong xã hội khác nhau đều tham gia phong trào yêu nước và đấu tranh cho hòa bình. Từ trí thức đến công nhân, từ các bạn trẻ tuổi (học sinh mới sang học) cho đến những người đang làm việc tại đây đều muốn đất nước được hòa bình, thống nhất". Đối phương thường tuyên truyền Việt Cộng như là môt nhúm "dân đen" nhưng thực tế có đông đảo các tầng lớp tham gia, ủng hộ Chính phủ CMLT. Sau này, mỗi khi bạn bè quốc tế hỏi về lý do dẫn đến thắng lợi của Việt Nam, bà Tôn Nữ Thị Ninh thường giải thích một cách giản dị: Nếu phong trào giải phóng hẹp và chỉ dựa vào lực lượng trực tiếp mà không có cơ sở rộng thì không thể thành công.
Phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại (nội lực và ngoại lực) - Việt Nam đã làm hết sức tự nhiên. Ngày nay, hội nhập quốc tế vẫn theo phương châm đó, tính chất Mặt trận vận dụng năm xưa vẫn có thể áp dụng được trên cả bình diện kinh tế vào giai đoạn hiện nay.
Ngoài tính chất Mặt trận đặc thù, bà Tôn Nữ Thị Ninh còn chia sẻ những nhận thức sâu sắc về bài học mà Việt Nam và ngành ngoại giao nói riêng cần rút ra từ sự kiện Hiệp định Paris 1973. Đó là:
Bài học đầu tiên là tập hợp lực lượng, thêm bạn, bớt thù. Phương châm này đã giúp Việt Nam tập hợp được lực lượng bao bọc, nâng đỡ; xác định được mẫu số chung là lợi ích, lợi ích gặp nhau chứ không phải nói suông, khẩu hiệu.
Thứ hai, nhu cầu hòa bình là phổ biến trong tất cả các xã hội. Nhận thức được niềm khao khát hòa bình của người dân Mỹ khi lính Mỹ chết nhiều, phong trào đấu tranh cho hòa bình của Việt Nam đã tranh thủ được sự đoàn kết của các bà mẹ từ hai phía - điều mà không phải phong trào giải phóng dân tộc nào cũng tận dụng được. Khi đó, mẫu số chung lợi ích về hòa bình đã vượt lên trên ý thức hệ của các bên.
Thứ ba, Việt Nam phải luôn sẵn sàng đi đầu. Những năm đó, thế giới không nhìn vào bề ngoài hay cách ăn mặc của đoàn Việt Nam, người ta bỏ qua sự vụng về vì chính nghĩa chói lòa của Việt Nam. Giai đoạn ta là "mẫu số chung" đã qua. Có nhiều lúc hình như ta lựa chọn đi theo số đông, hoặc đi giữa đội hình để tránh bị cô lập, nhưng trong thời đại mới phải biết đi đầu trong một số vấn đề phù hợp với lợi ích của mình, với sở trường của mình. Cần mạnh dạn và biết lựa chọn khi đi đầu trong một số vấn đề. Hiện việc tập hợp lực lượng cũng phức tạp hơn và phải linh động tùy theo điều kiện, thời điểm. Ta cần có bản lĩnh, dám nghĩ cái mới và không để rơi vào tự mãn. Tìm ra được "linh hồn" của ngoại giao Việt Nam, cái khác biệt thiên hạ không phải là việc đơn giản, bà Tôn Nữ Thị Ninh kết luận.
(Bài viết được đăng tải trong Đặc san 40 năm Hiệp định Paris của Báo Thế giới & Việt Nam)