Đại hội XIII của Đảng đưa ra tư duy mới về an ninh con người, tạo nền tảng quan trọng để hiện thực hoá khát vọng, mục tiêu phát triển đất nước Việt Nam. |
Định nghĩa “an ninh con người” lần đầu tiên được Liên hợp quốc (LHQ) đưa ra năm 1994 trong Báo cáo phát triển con người. Theo đó, an ninh con người thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản: An toàn trước các mối đe dọa triền miên như đói khát, bệnh tật, áp bức; được bảo vệ trước những biến động bất thường và có hại đối với cuộc sống hàng ngày, trong mọi môi trường.
Từ đó đến nay, vấn đề này dần trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều diễn đàn quốc tế, thậm chí đã kiến tạo một khuynh hướng lý luận coi “an ninh con người là trung tâm”. Bảo đảm an ninh con người cũng là vấn đề xuyên suốt trong quan điểm của Đảng ta.
Kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh con người
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề con người, an ninh con người. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 2/1930) đã bước đầu khái quát được những nội dung an ninh con người trên các phương diện xã hội, chính trị, kinh tế.
Về xã hội: bảo đảm dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa; về kinh tế: thâu ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về chính trị: khẳng định con đường cách mạng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, mang lại nền độc lập cho nhân dân.
Đặc biệt, trong bản Tuyên ngôn độc lập 1945 - “hòn đá tảng” pháp lý đầu tiên khẳng định về nguyên tắc, thực tế quyền sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Mọi người sinh ra đều có quyền tự do, bình đẳng và tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn không chỉ là tấm giấy khai sinh cho một Nhà nước Việt Nam theo thể chế Dân chủ - Cộng hòa, theo đuổi mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại thành một chân lý mang tầm thời đại, gắn chặt với việc bảo vệ quyền con người, vì con người.
Có thể thấy, qua thử thách của thực tiễn đấu tranh cách mạng, quyền sống của dân tộc và quyền sống của con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được gắn với nhau một cách hữu cơ, nhuần nhuyễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã minh định rằng, ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ bảo vệ nhân quyền chân chính, vì mục tiêu phát triển con người, nhằm đảm bảo an ninh con người.
Lời nói đầu của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946 đã xác định một trong ba nguyên tắc xây dựng Hiến pháp chính là “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Đến Hiến pháp 2013, Điều 3 khẳng định “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Đây là nền tảng pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền con người và an ninh con người ở Việt Nam.
Xuyên suốt các văn kiện đại hội, đặc biệt là từ Đại hội VI, quan điểm của Đảng đều hướng tới mục tiêu phát triển đất nước là vì con người và do con người, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt ba lĩnh vực cơ bản: chính trị, kinh tế, xã hội.
Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng xã hội dân chủ với việc bảo đảm an ninh con người. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là yếu tố cốt lõi của hệ thống chính trị với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nếu như dân chủ xã hội chủ nghĩa coi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân làm chủ thì an ninh con người lấy con người làm trung tâm dựa trên quyền con người và mục đích phát triển con người. Xét trên phương diện logic, việc đảm bảo an ninh con người cùng với quá trình xây dựng xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa không hề mâu thuẫn mà ngược lại nó là sự đảm bảo để hướng tới mục tiêu chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2010-2020 đã khẳng định con người là trung tâm và chủ thể của phát triển gắn liền với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Thực tế cho thấy, an ninh con người chỉ trở thành hiện thực trong xã hội dân chủ và xã hội dân chủ là tiền đề đảm bảo an ninh cho con người trên phương diện cá nhân, cộng đồng và đặc biệt là tạo dựng một môi trường chính trị pháp lý hòa bình, ổn định.
Ở Việt Nam, bản chất của Nhà nước là Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước thể hiện nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, cùng với việc tạo điều kiện tối đa để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, Đảng chủ trương phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Đây là điểm mới về nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện ở điểm: Pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chủ nghĩa xã hội là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân, được nhân dân đồng thuận, ủng hộ.
Xuyên suốt các văn kiện đại hội, đặc biệt là từ Đại hội VI, quan điểm của Đảng đều hướng tới mục tiêu phát triển đất nước là vì con người và do con người. Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng xã hội dân chủ với việc bảo đảm an ninh con người. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là yếu tố cốt lõi của hệ thống chính trị với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. |
Kiểm nghiệm qua thực tiễn
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…”, mọi quyết sách của Đảng đều hướng về một mục tiêu: phục vụ Nhân dân.
Để đạt mục tiêu đó, Đảng ta xác định cần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường… coi đó là tiền đề vật chất để đảm bảo an ninh con người.
Trong bối cảnh bước vào thập kỷ thứ nhất của thế kỷ XXI, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX (2001) đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá… Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo”.
Bước vào những năm cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cần “tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch”. Như vậy, việc hình thành một thể chế kinh tế đồng bộ, hướng tới giải quyết mọi vấn đề trên lĩnh vực kinh tế chính là tiền đề quan trọng để Đảng ta thực hiện mục tiêu đảm bảo an ninh con người, vì con người.
Năm 2015, Việt Nam hoàn thành xuất sắc các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, trong đó hoàn thành trước thời hạn 3 mục tiêu (Xóa bỏ tình trạng nghèo cực cùng, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới và vị thế cho phụ nữ). Chỉ số phát triển con người (HDI) có nhiều tiến bộ, năm 2020 là 0,704, được xếp vào nhóm phát triển con người cao và xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đại hội XIII đã khẳng định: “Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những kết quả đạt được trong xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, ứng phó các đại dịch (HIV, SARS, MERS)… là minh chứng sống động cho quyết sách đúng đắn của Đảng để bảo vệ con người và an ninh con người.
Nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng về an ninh con người, có thể nhận thấy, thực hiện an ninh con người là nhằm hướng tới bảo đảm quyền con người - xu hướng tốt đẹp mà toàn nhân loại đang hướng tới.
Theo đó, con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Việt Nam cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vì con người và cho con người.
Tuy nhiên, một mặt, Đảng ta luôn ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người, tuân thủ những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế trong quá trình đảm bảo an ninh con người, kế thừa những luận thuyết về an ninh con người của các tổ chức quốc tế…; đồng thời, tiếp cận nó một cách hợp lý trong điều kiện đặc thù của một quốc gia.
Đảng ta khẳng định không nước nào có quyền sử dụng quyền con người hay lấy mục tiêu đảm bảo an ninh con người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
Cuộc đấu tranh vì các quyền con người cần tiến hành đồng thời với các biện pháp ngăn chặn các cuộc chiến tranh, xung đột, khủng bố, nghèo đói, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia… đang hàng ngày, hàng giờ đe dọa hòa bình, an ninh độc lập và phồn vinh của mọi quốc gia, ngăn cản việc thúc đẩy và đảm bảo an ninh con người trên toàn thế giới.
Đây cũng chính là cơ sở quan trọng để Đảng ta thực hiện các đường lối, chính sách phù hợp nhằm đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc lợi dụng quan niệm về an ninh con người để tô điểm cho quan điểm phi lý “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, coi chủ quyền quốc gia không phải là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.